TIN TỨC

Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-02 02:19:24
mail facebook google pos stwis
796 lượt xem

NGUYỄN PHƯƠNG HÀ

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ  cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ  là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).

 

Nhà thơ Bùi Minh Vũ

 

Đọc tập thơ, thấy hiện lên rất nhiều hình ảnh biển đảo từ Trường Sa, Hoàng Sa, đến các đảo Sinh Trồn, Lý Sơn, Song Tử Tây, Đá Tây, bãi Thuyền Chài, Gạc Ma, Sơn ca, đảo chìm, đảo nổi, nước biển, sóng biển, ở nhiều thời điểm khác nhau: sáng, trưa, chiều, tối, rạng đông, mặt trời, ánh trăng, sao đêm… Hình ảnh biển đảo hiện lên trong thơ như một bức tranh thật đẹp: “Trời vừa hừng sáng/Đảo như thân thể mỹ miều/Giữa làng quê ghì chân tôi thăm thẳm” (Trời hừng sáng), “Đêm dưới đáy Gạc Ma/Vút ve đàn cá nhỏ/Nước biển lóng lánh tia mắt đỏ” (Độc huyền cầm). Đó là một đêm trăng trên đảo, đẹp, thanh vắng mà không hoang vu: “Trăng Lý Sơn nở hoa/Thơm trên ngôi mộ gió” (Trăng nhớ). Tác giả có những hình ảnh thơ lung linh đa nghĩa, gợi nhiều liên tưởng xa xôi, lấp lánh: “Luồng ánh sáng trong vắt/Nở hoa/Đính trên đảo Sinh Tồn”(Ánh sáng). Đó là khi ta bắt gặp ngọn Hải đăng như đoá hoa nở trên biển trời Tổ quốc: “Từ hun hút xa mờ chợt loé/Ngọn Hải đăng Trường Sa bật sáng/Nâng ta lên thiết kế lại dáng hình” (Đoá hoa nở). Trong tâm tưởng của nhà thơ, biển đảo không dữ dội, náo động mà gần gũi như cuộc sống bình dị của quê hương: “Người phụ nữ làng chài/Sải tay ra đảo nổi/Há miệng ngậm mặt trời” (Người phụ nữ làng chài). Nhà thơ thật tinh tế khi cảm nhân và so sánh hình ảnh chiếc lá bàng vuông với chiếc thuyền mo cau thuở ấu thơ để biểu hiện biển đảo gần gũi, thân thương: “Toả hương thơm dịu ngần/Những lá bàng vuông đung đưa biển gió/Như chiếc mo cau mẹ quạt ngày xưa” (Hoa cau trắng). Âm thanh tiếng chuông chùa hư thực đưa biển đảo gắn với đất liền Tổ quốc, với văn hoá xứ sở và cuộc sống yên bình của nhân dân: “Thênh thang trên đảo Đá Tây/Tiếng chuông chùa trườn trên nước” (Trên đảo Đá Tây). Biển là nguồn tài nguyên vô tận đem đến cho người dân cuộc sống ấm no: “Ngoài khơi ghe chói sáng/ Bầy cá cơm ăn đèn/ Biển như vòng tay mẹ/Ấm sang đời cháu con” (Âm vang); “Nhìn tấm lưới đính hoa/Mùa cưới cá dạt dào/Niềm vui từ biển đến” (Đêm biển khơi). Hình ảnh những chiếc thuyền ngư dân bám biển, bảo vệ chủ quyền và đánh bắt hải sản được gợi lên thật thi vị: “Những ngón tay đan tiếng cười/Thành bè thuyền/Hình nốt nhạc/là những chuyến ra khơi” (Kết tinh). Biển đảo quê hương giàu đẹp cũng là nơi kẻ ngoại bang ngày đêm xâm lấn, quấy phá, cuộc sống lao động của ngư dân chưa được bình yên: “Chiếc thuyền câu ngoài biển/Nhỏ dần/Nhỏ dần/Rồi mất hút/Giữa làn sóng xoay mình quanh chiếc thuyền lạ” (Nghĩ). Đó là nỗi trăn trở thường trực của tác giả, của nhân dân ta đối với chủ quyền biển đảo.

Hoàng Sa, Trường Sa là một phần máu thịt không thể chia rời của Tổ quốc Việt Nam. Từ thời quốc gia phong kiến độc lập, những dân binh đã theo lệnh Vua ra biển xa, cắm mốc chủ quyền quốc gia trên đảo: “Người đi Trường Sa cắm mốc/Người đi Hoàng Sa cắm mốc/Cõi mở rồi/Ở lại” (Mở cõi). Ngày nay, Hải quân nhân dân Việt Nam tiếp tục ra khơi bám biển, bám đảo, giữ vững biển trời quê hương; nhân dân cả nước luôn hướng về biển đảo yêu thương. Dù cuộc sống, sinh hoạt và chiến đấu còn nhiều khó khăn gian khổ nhưng những người lính đảo vẫn luôn lạc quan, yêu đời, quyết tâm giữ chắc tay súng, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng: “Nụ cười thơm trái chín/Gian truân ngạo nghễ xanh/Nụ cười soi sáng đảo/Gió bão bung nở hoa” (Thức tỉnh). Những người lính đảo và sự hy sinh thầm lặng của họ để giữ vững biển đảo Tổ quốc đã hoá thân thành những mốc chủ quyền: “Chợt thấy những chiếc mũ trắng/Một ngôi sao/Hai ngôi sao/Ba ngôi sao/Sắp hàng luồng ánh sáng chói chang” (Ánh sáng). Những người chiến sĩ nằm lại mãi nơi biển khơi đã hoá thân vào sóng nước, thành “hương hoa” của sóng, thành những ngôi sao đêm không bao giờ tắt. Với lòng yêu kính và cảm phục phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ Hải quân, tác giả đã dùng hình tượng thơ để bất tử hoá sự hy sinh của họ: “Những linh hồn yên ngủ/Trên nấm mồ nước mặn/Hương hoa sóng/Lăn tăn/Chảy dài/Như ngôi sao không nhắm mắt” (Thắp sáng). Hình ảnh những cây lá bàng vuông như một biểu tượng của Trường Sa, Hoàng Sa được lặp lại trong nhiều bài thơ thật ám ảnh: “Bên gốc bàng vuông sừng sững/Ngỡ mình đang sống/Giữa thủ đô” (Vào lúc này), “Những lá bàng vuông đung đưa biển gió/Như chiếc mo cau mẹ quạt ngày xưa” (Hoa cau trắng), “Màu gió trăng thủ thỉ/Hương nước xanh thầm thì/Hoa bàng vuông bung nở” (Trời hừng sáng), “Không xa lắm/Hoa bàng vuông thơm như môi/Những màu đêm ngọt” (Trăng), “Mẹ ôm biển vào lòng/Nghe hoa bàng vuông nở/Lặng lẽ/Ánh trăng vàng” (Mẹ chờ), v.v…

Cùng với biển đảo là hình ảnh “cái tôi” trữ tình nhà thơ, thể hiện tình cảm gắn bó, hoá thân vào biển đảo: “Tôi tô lại chữ Trường Sa/To như rạn san hô như đảo chìm đảo nổi/Như khoảng trống trên trời/và tôi nhìn/Thấy tôi ở đó” (Tô chữ). Nhà thơ thấy mình với biển như con sóng, như đàn hải âu: “Nắng chiều/Lưa thưa ốm/Hải âu bay vội vàng/Sóng như chàng thi sĩ/Ngẩn ngơ chờ/Mùa sang” (Ru mùa) và sự hoá thân nồng nàn vào biển: “Em tắm biển/Hình như/Nước biển/Có mùi thơm mái tóc anh” (Tắm biển). Gắn bó với biển đảo qua những chuyến đi, hình ảnh biển đảo ám ảnh tâm hồn nhà thơ, nhiều khi hiện lên trong mơ tưởng: “Đêm mơ đặt chân lên bãi Thuyền Chài/Trăng ngọc bích thật thà như đứa bé/Nắm tay tôi” (Bức vẽ). Ước vọng gắn bó với biển đảo được biểu hiện khá sinh động bằng việc nhập thân vào hình ảnh sóng, gió: “Đôi khi muốn làm gió/ Cưỡi sóng biển khuya/ Đôi khi muốn làm sóng/ Lờn vờn quanh Hoàng Sa” (Đôi khi). Yêu thương, gắn bó với biển đảo là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước, sự gắn bó và trách nhiệm của người nghệ sĩ với Tổ quốc mình: “Đêm đêm tôi úp mặt vào sóng/Nghe bài ca Tổ quốc tôi’ (Khúc hát) và một khát vọng thiêng liêng: “Con nhìn lên khung ảnh/Nghe cha bảo/ Con hãy đeo ba lô/ Và cùng cha ra biển” (Cùng cha)…

 

 Tập thơ Buông neo của nhà thơ Bùi Minh Vũ

 

Ở tập thơ Buông neo, Bùi Minh Vũ đã chuyển hẳn sang phương thức biểu hiện của thơ siêu thực hậu hiện đại. Đây là một trong những hướng đổi mới thơ Việt Nam hiện nay. Người đọc nhận ra hình ảnh siêu thực rất điển hình trong bài Ghi chép bên đường: “Ký ức trườn qua/Khoanh tròn/Con rắn lục/chạm vào nắng tím làng tôi”. Nhà thơ chú ý khai thác thế giới cảm thấy trong mơ, trong tiềm thức, ảo giác, biểu hiện bằng những ẩn dụ siêu thực có sức ám gợi: “Tôi thấy ngoài Trường Sa/Những ngôi sao chân thật/Những ngôi sao sắp hàng/ Những ngôi sao đi rầm rập” (Phát sáng). Anh vận dụng triệt để phương thức lạ hoá để xây dựng hàng loạt những hình ảnh so sánh siêu thực, những liên tưởng dựa trên những nghịch lý, bất ngờ, đánh mạnh vào óc tưởng tượng của người đọc: “Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi” (Buông neo), “Sóng như chàng thi sĩ/Ngẩn ngơ chờ mùa sang” (Ru mùa), “Tiếng sóng vọng vào giấc mơ/tha thiết ngày xa nhà/vàng như hoa vạn thọ/ lướt thướt đôi mắt Song Tử Tây” (Tiếng sóng), vv…Hướng về thế giới vô thức, đề cao ngẫu hứng, ghi nhận những ấn tượng mơ hồ, mong manh lướt qua trong đầu, tác giả tạo ra nhiều liên tưởng thú vị: “Khi đoá hoa nở dưới nước/Giọt nước trên sóng lăn tăn/Gió con cá vượt/Trăng ngẩn ngơ một gã si tình” (Đoá hoa nở). Chi tiết, hình ảnh thực của biển đảo ghi nhận bằng giác quan đã được chuyển hoá thành những hình ảnh giấc mơ, ảo giác, tạo nên sự liên tưởng phong phú nơi người đọc: “Đêm qua/Tôi thấy những linh hồn trắng/Tựa vào nhau/Cong như chiến hào” (Những linh hồn trắng), “Ta lặn một hơi dài/Trôi tự do theo dòng hải lưu cùng bầy cá mặt trời/Sau nửa đêm/Ta và bầy cá bắt tay nhau/Hướng về Trường Sa thương nhớ” (Điền dã ngoài biển). Những hình ảnh, sự vật cách xa nhau được đặt cạnh nhau, gợi liên tưởng xa mờ, đa nghĩa: “Tôi câu mực/Từng con mặt trăng/Giấc mơ thánh thót” (Câu mực), “Dấu vết cánh buồm đâu đó/Giữa biển khơi/Như vết môi son tháng Giêng/Như bông hồng sinh nhật/Như tiếng gà khuya xa mờ lấp lánh/Hiển lộ trong chiếc khăn em thêu” (Cánh buồm), “Sóng mật ong cá rỉa/Cõng giấc mơ Sinh Tồn/Mang theo trái tim mẹ/Gặp gỡ nơi đảo xa(Giấc mơ Sinh Tồn). Nhà thơ tạo ra cách trình bày mới mẻ trong bài Chú thích: “Ta hớn hở/ Bước lên đảo chìm/Đi qua bãi cọc/Hiện lên chữ số/ 1/ 2/ 8/ 8”. Con số 1288 được cấu tạo thành 4 dòng thơ theo phương thức lạ hoá. Thì ra, những mũi đá nhọn dưới đảo chìm ở Trường Sa gợi hình ảnh bãi cọc Cao Quỳ trên sông Bạch Đằng đã làm tan tành đạo thuỷ quân Nguyên Mông hùng mạnh, năm 1288. Một sự so sánh ngầm thú vị làm nổi bật sức mạnh của biển đảo Việt Nam, của con người Việt Nam trong sự nghiệp giữ vững chủ quyền Tổ quốc. Tác giả đã đổi mới trong việc ngắt dòng thơ, không dùng dấu câu, ngắt giọng theo nhịp rung của cảm xúc, sự mời gọi của tâm tưởng.

Nhìn chung, Buông neo là một thể nghiệm khá thành công của Bùi Minh Vũ. Với một đề tài quen thuộc có tính thời sự nhưng nhà thơ đã có cách thể hiện mới mẻ và hấp dẫn. Nhà thơ đã ảo hoá những hình ảnh ghi nhận từ giác quan, tạo ra hình tượng thơ có độ nhoè về nghĩa, gợi được nhiều liên tưởng nơi người đọc. Tuy nhiên, tập thơ có những bài, những câu viết dễ dãi, hạn chế về nhịp điệu; hình tượng và cảm xúc còn nhạt nhoà, thiếu sức thuyết phục. Mặt khác, lối thể hiện siêu thực “rất kén”người đọc vì ít nhiều gây khó khăn và ức chế trong việc tiếp nhận, nhất là đối với người đọc đại chúng. Nên chăng, dùng siêu thực như một thủ pháp nghệ thuật biểu hiện cho phương thức thơ trữ tình hiện thực thì người đọc dễ đồng cảm hơn, hiệu quả tác động mạnh mẽ hơn./.

N.P.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm