TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ

“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-01 16:54:09
mail facebook google pos stwis
1405 lượt xem

Tại buổi ra mắt tập thơ "Chữ gọi mùa trăng" (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc. Trong bài viết, chị nhìn thấy ở thơ Triệu Kim Loan một thế giới nữ tính đằm thắm, giàu trải nghiệm, nơi “chữ” và “trăng” trở thành tri kỷ của người thơ. Văn chương TP.HCM xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

HƯƠNG THU

Giữa cuộc sống hôm nay đầy biến động và hối hả, thơ Triệu Kim Loan hiện ra như một khoảng lặng dịu dàng, nơi chữ nghĩa không chỉ mang âm thanh mà còn ướp hương, cất giữ ký ức, và vọng ngân những cung bậc nội tâm đầy tinh tế. Tập thơ “Chữ gọi mùa trăng” không chỉ là lời tỏ bày của một người làm thơ yêu con chữ, mà còn là hành trình lắng đọng của một tâm hồn nữ tính giàu trải nghiệm, biết yêu và biết nhớ, biết nâng niu cái đẹp của quá khứ, hiện tại và trong từng nét vẽ, rung ngân của cuộc sống.

Ngay từ bài thơ mở đầu – “Chữ gọi mùa trăng”, nhà thơ đã xác lập một thế giới nghệ thuật đậm chất nữ tính, thiêng liêng và tha thiết:

“Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn. Tím chân trời là một màu chung thủy. Em và chữ đã thương nhau như thế. Cứ luân phiên thắp nến giữa mây ngàn”.

Ở đây, chữ nghĩa không còn là phương tiện biểu đạt đơn thuần mà đã trở thành nhân vật, thành người bạn tri kỷ đồng hành với tác giả đi qua những chạng vạng đời sống. Chữ không vô tri – chữ biết “thương”, biết “thắp nến giữa mây ngàn”, biết “gọi mùa trăng về thơm lựng trên môi”. Một mối quan hệ tinh thần đầy ám ảnh giữa “em” và “chữ”, nơi ánh trăng trở thành biểu tượng của sự thăng hoa, sự tinh khiết, sự thủy chung và cũng là sự cô đơn ẩn nhẫn. Đây là một không gian thơ độc thoại mà cũng rất đối thoại – đối thoại giữa hiện thực và tâm tưởng, giữa quá khứ và hiện tại, giữa nỗi buồn và ánh sáng.

Triệu Kim Loan không làm thơ để phô diễn kỹ thuật, mà để sống lại những miền cảm xúc đã từng đi qua, để gợi lại những nỗi nhớ đã thành khắc khoải. Trong bài thơ “Nụ nhớ”, hình ảnh biển, gió, mùa trăng và “em” kết hợp tạo nên một không gian nhớ thương mênh mang, nơi khoảng trống sau chia ly trở thành tâm điểm của cảm xúc:

“Biển vẫn sóng

Mùa trăng về gọi gió

Vắng em rồi. Mưa khát nắng chênh chao…”

Thơ ở đây không ồn ào mà lặng lẽ, không bi lụy mà thiết tha. Dường như nhà thơ chọn cách nói nhẹ, nhưng để lại âm vang sâu. Cái “vắng” của “em” trở thành khoảng rỗng để nỗi cô đơn ngân lên – vừa chông chênh, vừa nhuốm màu của một mùa trăng đầy cảm xúc.

Là một phụ nữ từng đứng trên bục giảng, từng sống giữa con chữ học thuật và chiêm nghiệm, Triệu Kim Loan làm thơ với sự điềm tĩnh của tri thức và sự mềm mại của cảm xúc. Những bài như “Hương đồng” hay “Nơi em đến” cho thấy rõ sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung – nơi nỗi đau riêng của người phụ nữ trở thành tiếng vọng của thân phận, của thế hệ:

“Hương thầm e ấp từ lâu

Đò giang hụt chuyến sông sâu lỡ làng”

Hay:

“Đã qua rồi - tháng năm tràn bão lửa

Vết sẹo chiến tranh

Dịch bệnh vẫn chưa lành…”

Dưới bút pháp ấy, ta thấy bóng dáng của một người phụ nữ từng đi qua nhiều giông gió, nhưng không đánh mất sự dịu dàng. Cái “sẹo chiến tranh” và “dịch bệnh” – biểu tượng cho những thương tổn lớn lao – được nhắc tới không nhằm than van, mà để từ đó, khơi dậy ý thức về sự hồi sinh, về “những bàn tay nắm” và niềm tin vào lòng nhân ái.

Đến với thơ của Triệu Kim Loan, người đọc bắt gặp ở đó một thế giới đầy hoài niệm và vẻ đẹp của một ánh trăng đầy thi vị, đầy thổn thức. Trăng đã theo người thơ đi khắp chốn nhân gian, cùng nhà thơ sáng soi từng con chữ, rong chơi mọi miền trên mảnh đất văn chương, và cuối cùng “Trăng là nhân chứng cùng em dịu dàng…”

Và tôi đã thấy một vầng trăng đầy thi vị trong thơ của Triệu Kim Loan, ở đó, trăng không chỉ là ánh sáng của thiên nhiên, mà là ánh sáng của ký ức, của kỷ niệm tình yêu, của những “đêm xây cổ tích”. Trăng trở thành một nhân vật lặng lẽ, chứng giám và giữ gìn những gì đẹp nhất, mơ mộng nhất của một thời đã qua.

“Chữ gọi mùa trăng” là một tập thơ nhiều tầng nghĩa – dịu dàng trong ngôn ngữ, sâu lắng trong cảm xúc, và bản lĩnh trong chiều sâu tư tưởng. Đó là tiếng gọi của một người yêu chữ như yêu chính nhịp thở của mình. Là một nhà thơ nữ, nhưng thơ Triệu Kim Loan không gói gọn trong cảm xúc riêng tư mà mở rộng ra không gian cộng hưởng của thế hệ, của thời đại.

Với nền tảng tri thức văn chương và trải nghiệm đời sống, chị đã gửi vào thơ mình không chỉ những vần thơ đẹp, mà còn là một cái nhìn nhân văn, trong sáng và tràn đầy yêu thương dành cho cuộc đời – ngay cả khi nó từng tổn thương.

“Chữ gọi mùa trăng” – một nhan đề nhẹ như làn gió, nhưng ẩn chứa chiều sâu của người đàn bà yêu thơ, sống hết mình với chữ, với đời và với ánh trăng tâm tưởng và khát vọng của chính mình. Tập thơ được viết nhiều thể loại: thơ văn xuôi, tự do, năm chữ, bảy chữ, lục bát. Vì thế, bên cạnh âm điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển, giàu nhạc tính của thơ ca truyền thống là những bài thơ hiện đại chắc gọn, linh hoạt về nhịp, vần, khoáng đạt về từ ngữ và các phương tiện chuyển nghĩa được lạ hóa. Với tập thơ này, Triệu Kim Loan đã định hình cho mình một nét riêng thật đằm thắm, trong sáng và nữ tính.  

Bài viết liên quan

Xem thêm
Phê bình như là tự truyện – Tiểu luận của Hoàng Đăng Khoa
Tín niệm phê bình văn học cũng là một dạng tự truyện rất gần với tinh thần của các phương pháp phê bình hiện đại như phê bình hiện tượng học, diễn ngôn học văn chương, hay mĩ học tiếp nhận – nơi chủ thể đọc/viết luôn hiện diện trong chính thao tác diễn giải văn bản. Dù vô tình hay hữu ý, mỗi bài phê bình đều là một “tấm gương một chiều” phản chiếu cái tôi nội cảm, cái chủ kiến, thiên kiến của người viết. Qua văn bản phê bình, người ta không chỉ thấy một hiện tượng văn học được phê bình, mà còn thấy cả một con người – đang thực hành sống, đọc, suy tư, tìm gặp tha nhân và bản thể.
Xem thêm
Đọc thơ của một luật sư
Tôi đã được đọc tập thơ đầu tay của Thái Hưng với cái tên rất thơ: ĐI QUA MÙA THU - Nxb Hội Nhà văn 2024; Rồi một số bài in chung trong tập: Bằng lăng tím lối Mễ Trì cùng với nhiều tác giả khác, lại đôi khi thấy thơ anh trên báo, chí, đậm nhất là tờ Thời báo Văn học nghệ thuật giới thiệu chân dung tác giả. Đọc qua, chợt có cảm nhận nhẹ nhàng, song ngẫm ngợi, thấy chất nhân tình thấm đẫm, cuốn hút. Chắc chắn phải là giọng của người đã từng đi qua nhiều mùa thu xao xác lá...
Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm