TIN TỨC

Abdulrazak Gurnah và hành trình viết để vượt qua nỗi đắng cay của cuộc đời

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1310 lượt xem

Giải thưởng Nobel văn học năm 2021 đã được trao cho Abdulrazak Gurnah – nhà văn của những người dân châu Phi tị nạn, nghèo khổ. Abdulrazak Gurnah sinh năm 1948 ở Zanzibar – lãnh thổ quần đảo lớn ngoài bờ biển Đông Phi, trên Ấn Độ Dương, trong một gia đình thuộc tầng lớp tinh hoa của người Ả Rập. Vào tháng tư năm 1964, quần đảo này hợp nhất với lãnh thổ lục địa Tanganyika thành quốc gia Tanzania như ngày nay. Khi Zanzibar trải qua cuộc cách mạng vào năm 1964 lật đổ sự thống trị của tầng lớp Ả Rập tinh hoa, Abdulrazak Gurnah buộc phải chạy trốn, rời bỏ xứ sở lúc mới mười tám tuổi để đến Anh khi còn là sinh viên.

Nhà văn Abdulrazak Gurnah 

Ông theo học tại Đại học Christ Church College ở Canterbury, nơi hồi đó được Đại học London cấp bằng khi tốt nghiệp. Sau ông chuyển tới Đại học Kent, đạt được học vị tiến sĩ với luận án về phê bình văn học (văn chương Tây Phi). Abdulrazak Gurnah chỉ có thể về thăm Tanzania năm 1984, gặp lại cha mình một thời gian ngắn trước khi ông qua đời. Từ năm 1980 đến năm 1983, Abdulrazak Gurnah giảng dạy tại Bayero University Kano ở Nigeria. Sau đó, ông trở thành giáo sư giảng dạy về văn chương hậu thực dân ở Đại học Kent cho tới khi nghỉ hưu.

Abdulrazak Gurnah bắt đầu viết văn khi hai mươi mốt tuổi bằng tiếng Anh mặc dù tiếng Swahili là tiếng mẹ đẻ. Các truyện ngắn và tiểu thuyết của ông được giới phê bình đón nhận tích cực, đưa ông lên vị trí một trong những tác giả hàng đầu về văn học châu Phi. Alexandra Pringle – biên tập những tiểu thuyết của Abdulrazak Gurnah ở Nhà xuất bản Bloomsbury – cho rằng ông là một trong những nhà văn vĩ đại nhất còn sống của châu Phi, với một văn phong đặc biệt đẹp, nghiêm túc, nhưng cũng đầy hài hước, nhân ái và nhạy cảm, “một nhà văn phi thường viết về những điều thật sự quan trọng”. Mặc dù viết bằng tiếng Anh, chịu ảnh hưởng lớn từ nền văn hóa, giáo dục Anh, nhưng Abdulrazak Gurnah cho rằng các tác phẩm của mình mang dấu ấn của nhiều nền văn hóa, giáo dục khác nhau. Ông đã từng nói: “Giáo dục phổ thông mà tôi nhận được ở Zanzibar là một nền giáo dục thuộc địa Anh… Nhưng tôi không chỉ học ở đấy. Tôi còn học ở đền thờ (Hồi giáo), ở trường giảng kinh Koran, học từ đường phố, học ở nhà qua việc đọc không hạn chế theo cách riêng của tôi.”

Mặc dù là một nhà văn hàng đầu về châu Phi, nhưng các sáng tác của Abdulrazak Gurnah lại không thành công về mặt thương mại. Sách ông bán chậm. Chỉ đến khi tên ông được xướng lên ở Stockholm năm 2021 này, các nhà xuất bản và nhà sách mới “hối hả” tái bản các tác phẩm của ông nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, Kí ức về cuộc xuất hành (Memory of Departure, 1987) viết về thân phận lạc loài của những người dân di cư, đặt câu hỏi lớn về điều xảy đến cho “những người ở mọi phương diện là thuộc về một nơi chốn, nhưng họ không cảm thấy mình là một phần của một nơi chốn, cũng không được coi là một phần của một nơi chốn”. Hai tiểu thuyết tiếp theo, Con đường hành hương (Pilgrim’s Way, 1988) và Dottie (1990) tập trung miêu tả những biến chuyển chính trị và xã hội lớn cùng những dời chuyển nhân khẩu học khổng lồ ở cuối thế kỉ XX.

Cuốn tiểu thuyết thứ tư của Abdulrazak Gurnah, tiểu thuyết lịch sử Thiên đường (Paradise) lọt vào danh sách vòng cuối đề cử giải thưởng Booker năm 1994, lấy bối cảnh vùng Đông Phi trong thập niên trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Theo The Independent, tiểu thuyết Thiên đường có cốt truyện đa tuyến, “nhiều lớp, dữ dội, đẹp và kì lạ”. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học chuyên về văn học châu Phi nhận định, ở tiểu thuyết này Abdulrazak Gurnah đã đưa ra một thách thức, một sự tra xét các hình ảnh châu Phi và phiên bản kiểu châu Âu về lịch sử xứ sở này. Nói về tác phẩm Thiên đường, Abdulrazak Gurnah giải thích sự chuyển dịch điểm nhìn trên phương diện phong cách đó là sau một thời gian, những năm đầu 1980, khi ông quay về châu Phi, dạy học, thăm lại quê hương và đi đây đó: “Khi trở về sau cuộc du hành ấy, tôi viết Paradise. Tôi cho rằng từ thời điểm đó trở đi tôi đã quan tâm đến thân phận của người di cư theo một cách khác. Nếu trước đây nước Anh là cái nền – ít ra, trong Pilgrim’s Way và Dottie – thì ở những tác phẩm sau đó, cái nền ấy được thay thế. Nó trở nên là một quang cảnh nội tại, nơi mà chúng ta hiện diện không còn quá quan trọng với những cuộc thương thảo giằng co diễn ra bên trong ta. Thế giới bên ngoài không phải không liên đới, nhưng không hoàn toàn ở vị trí trung tâm.”

Ngưỡng mộ im lặng (Admiring Silence, 1996) và Bên biển (By the Sea, 2001) – hai tiểu thuyết tiếp theo – tập trung vào những nhân vật mang thế giới của mình ẩn sâu trong khung cảnh nội tâm. Các tiểu thuyết sau đó như Ruồng bỏ (Desertion, 2005), Món quà cuối cùng (The Last Gift, 2011), Trái tim cằn cỗi (Gravel Heart, 2017) được xây nên từ những câu chuyện, kí ức và những hồi ức tưởng tượng.

Tác phẩm mới nhất của Abdulrazak Gurnah, tiểu thuyết lịch sử Những cuộc đời bên kia (Afterlives, 2020), viết về những nỗ lực tìm kiếm sự bình yên, hạnh phúc bất thành của những người dân xứ Tanganyka và vùng Đông Phi khi sống dưới chế độ thực dân. Những con người đáng thương ấy đã bị chế độ thực dân bào mòn đến kiệt quệ cả về thể xác lẫn tinh thần. Tiểu thuyết này đã nhận được rất nhiều lời ngợi khen của giới phê bình. Họ cho rằng Những cuộc đời bên kia có cái nhìn độc đáo về những mối quan hệ, những mâu thuẫn phức tạp của một xã hội thuộc địa, là “một bi kịch với sự thầm lặng đẹp đẽ” được viết bằng một thứ văn chương tinh tế, đẹp, tiết chế chuẩn mực, đầy tưởng tượng. Maaza Mengiste trên tờ The Guardian đưa ra nhận định, ở tiểu thuyết này, Abdulrazak Gurnah đã đặt ra nhiều câu hỏi về những hậu quả lâu dài của thời kì thực dân đối với người châu Phi và phục dựng góc nhìn, quan điểm của người châu Phi – điều mà chủ nghĩa thực dân đã cố tình loại trừ – trong những tiến trình lịch sử: “Afterlives là một tiểu thuyết đi vào lòng người, một tác phẩm đưa ta lại gần với tất cả những người đã bị cố tình lãng quên, và là những người đã chối bỏ việc tẩy xóa mình.”

Có thể nói, với Abdulrazak Gurnah, viết là một hành trình để vượt thoát, quên đi những cay đắng, những ám ảnh đến từ những chuyến di dân khổng lồ của dân tộc mình, quê hương mình.

 Nguyễn Chí Hoan/VNQĐ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm
Chùm thơ Rodica Marian (Rumani)
Là một tiến sĩ Ngôn ngữ học, thành viên của Hiệp hội Nhà văn Romania, bà là cộng tác viên khoa học cấp cao của Viện Ngôn ngữ học và Lịch sử Văn học Sextil Pușcariu ở Cluj Napoca.
Xem thêm
Chùm thơ của Yang Geum-Hee’s – Hàn Quốc
Nữ sĩ Yang Geum-Hee sinh năm 1967 tại Jeju, Hàn Quốc
Xem thêm