TIN TỨC

‘Những miền đất nhớ’ trong hồn người xa xứ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
849 lượt xem

Lê Xuân

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Bạn yêu thơ biết đến Đặng Tuyết trước hết ở tấm lòng thiện nguyện cao đẹp của chị. Là người con của Hà Tĩnh xa xôi nhưng duyên may đã đưa chị đến với Cần Thơ – vùng “gạo trắng nước trong” và xem đây là quê hương thứ hai của chị. Con người đam mê thơ và đầy lòng nhân ái này luôn lấy công tác xã hội làm niềm vui. Chị tham gia Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ phường Hưng Lợi, làm cố vấn Hội người khuyết tật Thành phố Cần Thơ, là người sang lập Câu lạc bộ Thiện nguyện hơn 10 năm nay. Chị là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Thiện nguyện “Nối vòng tay lớn”, trực thuộc Viện Võ học Việt Nam. Chị được xem như “người mẹ” hiền của những mảnh đời bất hạnh, kém may mắn trong xã hội, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ họ và mong rằng “không ai bị bỏ lại phía sau”. Tất cả những ước nguyện, niềm vui và nỗi nhớ được chị chuyển vào những vần thơ dân dã mà  hiện đại và đậm tính nhân văn.

 


Nhà thơ Đặng Tuyết.

Đặng Tuyết đã xuất bản ba tập thơ: “Quê hương – nỗi nhớ trong tôi” (NXB Hội Nhà văn, 2015) “Điệu ví tình quê” (NXB Văn học, 2016), “Về miền sông Hậu” (NXB Hội Nhà văn, 2020) đã để lại dấu ấn đẹp trong lòng bạn đọc gần xa. Sức viết khỏe, cảm xúc thơ luôn thăng hoa trong tâm hồn chị để rồi “đứa con” thứ tư lại chào đời “Những miền đất nhớ” (NXB Hội Nhà văn – 2022) với 60 bài với đủ thể loại: lục bát, tứ tuyệt, Đường luật, thơ tự do… với các chủ đề “Miền đất nhớ”, “Những ngày giãn cách”, “Thơ cho mẹ và cháu”…

Với Đặng Tuyết, thơ trước hết là cuộc đời, như nhà văn Nam Cao đã nói “Sống đã rồi hãy viết”. Thơ đối với chị như khí trời, nước uống không thể thiếu được, bởi chị muốn dùng thơ để làm vơi đi những nắng lửa, trăn trở băn khoăn của cuộc sống. Thơ như một điểm tựa, chắp cánh cho chị đi trên mỗi bước đường. Đặng Tuyết đến với thơ mong giãi bày những ẩn ức, vui buồn của cuộc đời. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường chị đã rất yêu thơ. Và giấc mộng văn chương ấy cứ đeo bám chị trên mỗi chặng đường.

Trong mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương để thương, để nhớ, và nếu ai đó “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân). Nhà thơ người Nga Ilia Erenbua đã viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Vonga. Con sông Voga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Đặng Tuyết đã viết mấy chục bài về quê hương ở cả ba tập thơ, và những vùng đất đã qua trong những chuyến đi làm từ thiện về miền Trung bão lụt hay đi cứu trợ cho những vùng bị covid nặng, ta càng thấy tình quê hương đất nước và nghĩa cử vì đồng bào ruột thịt trong chị cao đẹp biết dường nào.

Tập “Những miền đất nhớ” của chị vẫn tiếp nối mạch nguồn cùng dòng chảy ở ba tập thơ trước “Quê hương, nỗi nhớ trong tôi”, “Điệu ví tình quê” và “Về miền sông Hậu” viết về đề tài: quê hương, gia đình, xã hội, về Đảng, Bác, Tổ quốc, viết về những mảnh đời bất hạnh, về người mẹ kính yêu, về tình bà cháu. Người đọc thấy rõ hơn những rung động của con tim về nỗi nhớ quê dằng dặc luôn thường trực trong người đàn bà đa cảm: “Đi tìm/ một chút hương quê/ Để người xa xứ/ tìm về chốn xưa/ Vẳng nghe/ Khúc hát đò đưa/ Xa/ Nghe thăm thẳm/ Giọt thưa giọt dầy/ Đung đưa/ mây gió hao gầy/ Hương đồng gió nội/ Làm ngây ngất lòng/ Bao giờ/ trở lại dòng song/ Nghiêng/ theo dòng nước/ Thong dong tháng ngày” (Hương quê).


Tập thơ “Những miền đất nhớ” của Đặng Tuyết.

Nguồn sữa nuôi dưỡng thơ chị là tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, là nghĩa vụ và trách nhiệm công dân, là sự hiến dâng tự nguyện cho hạnh phúc cộng đồng. Từ những rung động vi mô đến những rung động vĩ mô của con tim đều ẩn chứa trong thơ chị. Cảm xúc thường trực, da diết nhất ở chị là người mẹ thân thương với bao tảo tần nơi Sông La với bốn mùa mưa nắng, nơi có ngọn gío Lào cháy bỏng và những cồn cát khô để nuôi chị lớn khôn. Những câu thơ về mẹ, về quê luôn đằm một nỗi nhớ, hấp dẫn bạn đọc ở nhiều cung bậc tình cảm:

Ta bâng khuâng thương nhớ rặng tre ngà

Sông Ngàn Sâu những chiều quê tắm mát

Bờ đê cong uốn khúc ruộng xanh màu

Nhớ mẹ lưng còng sớm trưa cày cấy.

(Đông lại về).

Nhiều buổi chiều chị thẫn thờ ngồi đếm vệt thời gian hay chút nắng hoàng hôn nhuộm vàng dáng quê để gom nỗi nhớ gửi về cho mẹ chia sớt cái lạnh mùa đông trên đất Bắc. Và vẳng vẳng đâu đây tiếng mẹ đằm thắm bên tai:

Nhớ lời mẹ dặn chúng con

Giàu sang nghèo khó phải tròn nghĩa nhân.

Trong đại dịch covid, chị luôn cầu mong cho mẹ và mọi người đừng ai bị F1, F0:

Mong đừng F một, F không

Để con bên mẹ thỏa lòng nhớ mong.

Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết: “Mẹ ru cái lẽ ở đời/ Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”. Những vần thơ về mẹ và quê hương của chị góp phần làm vơi nỗi nhớ của những người con xa xứ.

Từ Cần Thơ xa xôi, chị vẫn “nối vòng tay lớn” tới nhiều vùng miền của đất nước để làm thiện nguyện:

Tình người kết nối niềm tin

Miền Tây sông nước nghĩa tình bốn phương

Tôi luôn cầu mong cho chị “chân cứng đá mềm” để góp phần làm vơi nỗi đau của bà con Hà Tĩnh, Quảng Bình, Phan Thiết, Đak Nông, Thái Nguyên, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau…

Đây là những cung đàn vang ngân của tâm trạng vui buồn, sướng, khổ, ngậm ngùi, luyến nhớ khi qua mảnh đất miền Trung đang oằn mình trước cơn đại hồng thủy mà thiên nhiên vùi dập:

Trắng trời mây nước bao la

Đồng không nhà trống mẹ cha ngóng chờ

Sân trường vắng bóng em thơ

Nghẹn lòng bao cảnh bơ vơ không nhà.

(Thương về miền Trung)

Buồn thương và đau xót nhất trong thơ chị là những vần thơ viết về nỗi vất vả cực nhọc của những “thiên thần áo trắng” đã quên mình xông vào tuyến đầu của trung tâm dịch để cứu chữa cho bệnh nhân, họ luôn xem “chống dịch như chống giặc”. Có những y, bác sĩ đã hy sinh trên trận tuyến thầm lặng mà rất cam go này:

Thầy thuốc như những mẹ hiền

Đảo xa cho tới đất liền khắc ghi

Đôi ta đang tuổi xuân thì

Hy sinh thầm lặng còn gì đẹp hơn.

Tình người còn đẹp hơn khi trao cho nhau những chiếc khẩu trang là trao bao yêu thương ân tình:

Trao yêu thương gửi nụ cười

Ân tình đọng mãi rạng ngời mai sau.

Dù mưa gió bão bùng xối xả những “thiên thần áo trắng” ngành y hay các chiến sĩ công an vẫn bám trụ trên mỗi vọng gác, chung tay gìn giữ cho cuộc sống bình yên:

Trên trận tuyến covid từng giờ không ngơi nghỉ

Chiến trường không lửa đạn nhưng quyết liệt gay go.

Với hàng nghìn người dân từ thành phố Hồ Chí Minh rồng rắn về quê để tránh dịch covid bằng đủ mọi phương tiện, họ bất chấp gió sương, đường xa giãi nắng dầm mưa tìm về quê nhà, Đặng Tuyết  đã tỏ lòng xót thương, chia sẻ: “Cơn mưa chiều nặng hạt/ Những bước chân vội vàng/ Mong về lại bến xưa/ Ngọt phù sa sữa mẹ” (Người về từ phố xa). Nỗi đau của chị còn gửi tới cố nghệ sĩ Phi Nhung và biết bao liệt sĩ còn tên và chưa tìm thấy tên trên mọi nẻo đường Tổ quốc mà chị đã đi qua, để lại trong ta nhiều thương cảm về tình ngườ, tình đời:

Ngậm ngùi trước mộ không tên

Đâu đây những ánh sao đêm hẹn hò.

Bên cạnh nỗi nhớ quê hương, nhớ những vùng đất đi qua nạn dịch, chị dành nhiều vần thơ để nhớ con, thương cháu. Các cháu làm vui lòng bà, xoa vợi đi nỗi đau thường nhật. Thơ viết về thiếu niên của chị vừa hồn nhiên vừa dí dỏm như chính tâm hồn trẻ thơ vậy:

Ngày nắng mới đón bình minh

Cháu là tất cả niềm tin tự hào.

Một vầng trăng sáng, một tiếng trống trường, một tiếng gà gáy sáng, hay tiếng một con cún sủa, hoặc một tia nắng ban mai, một trận mưa đầu mùa đều làm xao xuyến hồn thơ nhạy cảm:

Hoa mưa đẹp lắm mẹ ơi

Từ trên cao xuống rụng rơi sân nhà

Bé ngồi đếm một hai ba

Hoa mưa tắm mát bông hoa trong vườn.

(Hoa mưa)

Trong thơ Đặng Tuyết có nỗi nhớ niềm thương, có nỗi đau về nhân tình thế thái, có những trăn trở, hoài vọng và niềm tin, cứ trải dài theo mỗi bước chân của chị trên mỗi cung đường. Thơ chị mang tính thời sự nhưng không kém phần lãng mạn, trữ tình. Có bi nhưng không hề lụy, luôn lạc quan yêu đời. Có niềm vui trào dâng nước mắt, có tiếng reo vang của trẻ thơ và biết bao âm thanh, sắc màu của cuộc sống luôn ùa vào theo cảm xúc thơ.

Gương mặt thơ Đặng Tuyết qua nhân vật trữ tình đến với bạn đọc để lại nhiều cảm mến. Tác giả đã vượt lên những đa đoan của cuộc đời để bước từ bóng đêm ra ánh sang. Chị đã nói hộ sự thổn thức con tim của biết bao người về quê hương, về gia đình, bè bạn, về tình thầy trò, về tình yêu lứa đôi. Chúng ta hy vọng sẽ được đón chào nhiều bài thơ hay của chị ở những tập thơ tiếp theo. Chúc chị luôn vững bước trên mọi nẻo đường đất nước để tiếp tục công việc thiện nguyện và sáng tác thơ. “Thơ và đời, đời và thơ” trong chị luôn là một “hằng số bất biến” đã “mặc định”, là thông điệp đa sắc đa thanh tắm mát tâm hồn người nghe. Xin trân trọng giới thiệu “Những miền đất nhớ” cùng bạn đọc.

L.X

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm