- Lý luận - Phê bình
- Làm người là khó… – Tiểu luận của Bùi Việt Thắng
Làm người là khó… – Tiểu luận của Bùi Việt Thắng
Có một điều dường như rất giản dị, nhưng lại khó hơn người ta tưởng: “làm người”. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng, qua tiểu luận "Làm người là khó…", khai mở ánh nhìn về thân phận con người trong những biến động lịch sử, khi nhân cách, danh dự và lẽ sống bị thử thách dữ dội. Bài viết không chỉ là một khảo sát văn học, mà còn là tiếng nói thức tỉnh, mời mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, trước khi trông mong người khác hiểu mình. Văn chương TP.HCM trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
BÙI VIỆT THẮNG
Đọc xong Đường sáng của nhà văn Nguyễn Văn Mạnh, tỉnh trí ra, tôi nhận thấy trong đó có cả hoa, có cả nụ. Tôi tin nhiều người cùng nghĩ như thế.

Nhà phê bình Bùi Việt Thắng
“Đường sáng”, vì sao
Nhà văn Nguyễn Văn Mạnh (Trưởng ban Biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam) gửi tôi bản thảo tiểu thuyết phi hư cấu Món nợ danh dự, nhờ đọc và viết Lời tựa.
Về lý thuyết cũng như thực tiễn văn học, đang bảo chứng cho một khuynh hướng tạm gọi là dòng tiểu thuyết có yếu tố tự thuật, nhà văn Ma Văn Kháng thì xác định là “tiểu thuyết cái tôi”. Cách nay vài năm Tiến sỹ Đỗ Hải Ninh (công tác ở Viện Văn học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) đã ra sách chuyên khảo Tiểu thuyết có yếu tố tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại. Những cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Chuyện ngõ nghèo của Nguyễn Xuân Khánh,… đều đọc hấp dẫn vì tác phẩm có yếu tố tự thuật, dường như nhà văn tự kể chuyện mình, nên chân thật, chân thành. Con người/ người đọc thời nào cũng khao khát sự thật. Nên mới có câu được nhập tâm với người cầm bút “Nửa cái bánh mì là nửa cái bánh mì. Nửa sự thật là giả dối”. Nói hình tượng thì, nhà văn chân chính luôn có cái ý nguyện “nhúng bút vào sự thật”, khi viết. Đó là biểu hiện của khát vọng được thành thật.
Đọc trọn vẹn sáu chương bản thảo tiểu thuyết phi hư cấu Món nợ danh dự, khi được tác giả tin tưởng ủy quyền cho nhà phê bình đặt tên (nhan đề) cho “đứa con tinh thần” của mình, tôi nung nấu một cái tên gọn ghẽ chỉ hai chữ ĐƯỜNG SÁNG. Vì sao? Vì, con người ta sinh ra là có số phận, có đường đời (đường đi nước bước); người thì ba chìm, bảy nổi chín lênh đênh (“Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao” – Nguyễn Du), người thì may mắn đường đời rải hoa hồng, người thì được “thánh nhân đãi khù khờ”,… Rốt cuộc, rồi ai cũng qua kiếp phong trần, lặn ngụp trong bể dâu, can qua. Tóm lại, ai ai rồi cũng phải trải qua “con đường đau khổ” (khổ nạn đích lịch trình). Từ nay Món nợ danh dự có tên khai sinh mới Đường sáng. Nhất quyết nó không phải là tự truyện hay hồi ký. Nó là tiểu thuyết phi hư cấu, như cách tác giả ghi danh thể loại, hay “tiểu thuyết có yếu tố tự thuật”, như giới nghiên cứu xác định, hoặc giả là “tiểu thuyết cái tôi”, thuộc kiểu gì cũng đều trúng và đúng. Nhưng thể loại, dẫu sao cũng chỉ là “xiêm áo”, quan trọng hơn cả là chính cái sinh thể được khoác lên xiêm áo bất kỳ – tác phẩm ấy với nội dung tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc có neo lại được trong ký ức độc giả, có tạo nên những ám ảnh nghệ thuật sâu sắc và lâu bền, có gửi gắm được thông điệp nhân văn nào mới mẻ hay không. Cuối cùng đọc có hấp dẫn hay không?!
Làm người là khó (nhân chi nan)
Món nợ danh dự, nếu theo cách đặt tên tác phẩm ban đầu của tác giả, xét đến cùng cũng có cái lý, cái tình thâm hậu của nó. Nhưng sau khi trao đi đổi lại, tác giả và người viết phê bình thống nhất với cái tên mới Đường sáng, bởi nó khái quát hơn, tính biểu tượng cao hơn. Hạnh – nhân vật chính (xuất hiện từ chương 1 đến chương 6 – kết thúc tiểu thuyết) dung chứa chủ đề tư tưởng của tác phẩm – làm người là khó. Dẫu trong hoàn cảnh nào anh cũng phải sống, phải vượt lên, trưởng thành, lập công không phải để chuộc tội mà để chứng minh nhân cách, phẩm giá của mình.
Đại thi hào Đức thế kỷ XIX Goethe có nói, đại ý, con người ta có thể chết vì đói rét, vì cô đơn, song con người ta cũng có thể chết vì oan khuất. Nó là một nỗi đau dai dẳng và khốc liệt nhất cho đến khi hồn lìa khỏi xác vẫn chưa kết thúc. Mới mười tuổi, Hạnh còn là một cậu bé ham chơi hơn hết nhưng đã phải gánh trên vai nỗi oan khuất tựa thái sơn khi gia đình bị quy kết (sai) là địa chủ bóc lột, sau 2 năm thì được gột rửa thành “địa chủ kháng chiến”?! Mười tuổi thì mới chỉ là “Trẻ em như búp trên cành/ Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”. Vậy nhưng Hạnh sớm chịu trận, sớm thấm thía “Vừa cay đắng vừa kiêu hãnh mong muốn chứng minh rằng, mình không là kẻ hèn yếu”. Một mình mẹ một nách ba con nhỏ khi bố sớm khuất bóng. Người ta nói “thời thế tạo anh hùng” cũng có cái lý sâu xa của nó, trong khi chúng ta cứ đinh ninh “anh hùng tạo thời thế”?! Gia cảnh ấy khiến Hạnh sớm giác ngộ về cuộc đời và xã hội, sớm tự lập, tự chủ trong cuộc sống vốn không ưu ái với gia đình và bản thân.
Đọc đến trường đoạn này tự nhiên mắt cũng cay cay, là bởi hoàn cảnh gia đình tôi vào độ có cơn đại hồng thủy 1954-1956, cũng na ná hoàn cảnh của gia đình Hạnh. Mẹ tôi mất sớm vào đúng cái năm hòa bình đến (1954). Bố tôi và gia đình tôi cũng bị cơn cuồng phong lịch sử thời kỳ ấy quăng quật, thiếu chút nữa là nghiền nát. Là một đảng viên từ thời kỳ khởi nghĩa 1945, bố tôi khi bị oan sai, oan khuất, cho đến khi được chiêu tuyết, rồi lâm chung ở tuổi bảy mươi, vẫn nhắc nhở anh em tôi, rằng nỗi đau đó không của riêng ai, là do lịch sử đung đưa, chệnh choạng khỏi quỹ đạo chân lý, đã động chạm và làm tổn thương đến nhiều người dân lương thiện nhưng chẳng may sa cơ lỡ vận. Nhưng bản thân mình sống tốt, có đức hạnh thì Trời Phật có mắt?! Sau này bảy anh em chúng tôi trưởng thành, đi trên con đường sáng, trở nên người tử tế và hữu ích càng tri ân bố mẹ đã giữ niềm tin vào chân – thiện – mỹ. Xét đến cùng, mỗi người như nhân vật Hạnh (suy rộng ra như thế hệ chúng tôi) đều là những thân phận khác nhau trong số phận lớn của nhân dân đông đảo, tử tế, vĩ đại, làm nên các giá trị thiện lành của cuộc đời này.
Học hành dang dở, chưa tốt nghiệp phổ thông (hệ mười năm), Hạnh xung phong đi bộ đội. Vì sức khỏe kém, lúc đầu không đủ tiêu chuẩn thực hiện nghĩa vụ quân sự, Hạnh đã viết đơn bằng máu và cả “gian lận” trong khám tuyển, cuối cùng anh cũng thỏa nguyện vọng khoác lên người bộ quân phục trở thành anh bộ đội Cụ Hồ. Với Hạnh lúc này “Chỉ có con đường vào bộ đội, vào Nam chiến đấu mới làm rạng danh gia tộc”, dẫu biết “Con đường phía trước là con đường máu lửa, nhưng cũng là con đường danh dự mà anh đã chọn”. Đây là sự dấn thân và lựa chọn của tuổi trẻ với tâm thế “Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi).
Tôi tham vấn tác giả đặt nhan đề tác phẩm là Đường sáng hẳn có ngụ ý sâu xa của nó. Cuộc đời lính trận của Hạnh (trọn chương 3) sặc mùi khói lửa, đạn bom, hy sinh được viết như những phóng sự đầy chất sống. Tuy nhiên, tâm lý độc giả là muốn đọc nhanh như những thước phim tài liệu chiến tranh. Họ muốn biết nhân vật Hạnh đã trải qua lửa đỏ và nước lạnh như thế nào, thép đã được tôi luyện như thế nào. Tác giả có vẻ như đã chia đều chất liệu và cảm hứng khi viết về cuộc sống trực chỉ nơi chiến trường của người lính chiến thực thụ – nhân vật văn học đáng yêu có tên Hạnh. Vì nhan đề tác phẩm là Đường sáng, nên con đường mà Hạnh đã chọn, đã trải qua chắc còn dài rộng, gian nan, đúng như một “con đường đau khổ” (khổ nạn đích lịch trình). Và bằng kinh nghiệm đọc văn học, độc giả biết (linh cảm thấy) Hạnh không thể hy sinh sớm, để lại nỗi thương tiếc khôn nguôi. Anh phải sống để đi đến đích cuối cùng trên con đường sáng mình đã tự nguyện chọn lựa.
Đường đời – những nỗi đoạn trường…
Năm 1980, Hạnh ra quân với quân hàm thiếu úy, khoác áo dân sự làm báo Minh Hải (Cà Mau). Ai đó nói có lý, nghề báo là nghề gian nan vất vả, đã đành, nhưng là nghề nguy hiểm, thực tế đã kiểm nghiệm, vì “lời nói đọi máu”. Rời bỏ khẩu súng, nay cầm bút cũng là một khẩu súng chữ, viết như một cuộc chiến đầu vì sự thật, công lý. Hạnh tâm niệm “Phải viết, phải nói thay tiếng nói của những con người thầm lặng kia để không ai còn bị lãng quên giữa vùng đất đầy bùn và gió”, “Viết để sống cùng dân, để soi sáng những nơi tối tăm nhất. Chỉ vậy thôi”. Cuối năm 1982, Hạnh được điều chuyển công tác sang Tòa án nhân dân tỉnh, vì ở báo Hạnh “viết thật quá”, nên động chạm những nơi, những người, những việc nhạy cảm?!
Từ chương 4-5, những đoạn trường của Hạnh thực sự là trọng tâm, trọng lực của tác phẩm. Chất đời dồn nén tối đa, xung đột tinh thần tập trung đỉnh điểm, nội tâm phân thân, cuộc đấu tranh với bản thân gay gắt và sâu sắc, đã khiến cho tiểu thuyết Đường sáng có cái nền móng, hơi thở văn hóa nên đã tôn tạo, kê cao, khắc sâu các vấn đề nhân sinh – đạo lý – thân phận con người trong một xã hội đang trở dạ. Vì suy cho cùng “Văn hóa là cách ứng xử” (cách sống cùng nhau). Làm báo nay làm luật, Hạnh đều trung thành với nguyên tắc “Luật chỉ là con đường. Nhưng người đi trên con đường ấy cần có trái tim”. Với bản tính trung thực, nên Hạnh đã nhận vào mình không ít khó khăn, hệ lụy. Nhưng dường như là định mệnh với anh “Thuyền cầu bão táp mưa sa/ Dường như giông bão mới là bình yên” (Con thuyền – Lermontov).
Bước ngoặt của đời Hạnh với “Những cánh cửa không đóng” (từ chương 5-6), khi anh chuyển sang viết về văn hóa, văn học nghệ thuật “Ở đó, không còn tiếng súng, tiếng dọa dẫm, mà là tiếng im lặng của nội tâm – thứ khó đối diện hơn cả hiểm nguy”. Từ nay gặt hái đầu ngọn bút của anh là những “mùa của chữ và lửa”, “Từ đó Hạnh bước sang một thế giới khác – thế giới chữ, nơi con người không bị vạch tội, mà được thấu hiểu”. Những truyện ngắn, bài thơ của anh nay chan chứa vị đời, lung linh và thấm đẫm niềm tin vào thiện lương ở con người, cuộc đời. Viết, bây giờ với Hạnh, như một cách thế tồn tại, như một sự phóng chiếu, thăng hoa. Hạnh đã thực sự hành đạo trên con đường sáng mà mình lựa chọn và dấn thân.
Vĩ thanh
Không thể nói đơn giản, nhân vật Hạnh chính là tác giả Nguyễn Văn Mạnh, “cha đẻ tinh thần” của nhân vật trung tâm với ý nghĩa là nguyên mẫu, hay là một “phiên bản văn nhân”, là nhà báo – nhà văn từng trải đời, trải nghề (năm 2024, Nguyễn Văn Mạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam). Nhà văn có được cái uy quyền của người sáng tạo nên thế giới hiện thực ở tầng thứ hai. Tác phẩm Đường sáng được ghi thể loại là “Tiểu thuyết phi hư cấu”. Nhưng bất kỳ sự tưởng tượng, hư cấu nào (nếu có) cũng phải tựa vững trên nền hiện thực đời sống và con người. Vì ghi như thế nên người đọc hay so đo, căn chỉnh xem trường đoạn này, chi tiết kia có hiện thực hay không. Giá như, tôi nghĩ, tác giả cứ mạnh bạo ghi là tiểu thuyết như cách nhà văn Lê Lựu viết Thời xa vắng. Thì đã sao, ai dám bắt bẻ, vặn vẹo đâu là thật, đâu là bịa (vì “tiểu thuyết là một câu chuyện bịa y như thật”).
Dường như tác giả đã tự “biên tập” mình, khi viết, trước khi được biên tập?! Tác giả, cũng như người viết Lời tựa, là sản phẩm của thời bao cấp, nên cái căn tính ấy ám vào văn chương. Vì thế, nên cách viết cũng bao cấp tư tưởng – nói cho tận cùng ngõ ngách sáng rõ, cho tường minh chuyện cuộc đời vốn lắt léo, mù mờ, đôi khi tưởng đâu là mê lộ, mê cung. Một lần, tôi ngẫu nhiên đọc cuốn Lý thuyết tập mờ trong toán học, mới ngộ ra rằng, trong một ngành khoa học chính xác tuyệt đối đến từng centimet như toán học, mà còn có những vùng mờ (tập mờ) thì há trong văn chương không còn chỗ cho những vùng mờ?! Tuy nhiên, nói như thế không có ý phê bình tiểu thuyết Đường sáng của nhà văn Nguyễn Văn Mạnh tỏ tường, sáng rõ, quang minh chính đại quá, như dưới thanh thiên bạch nhật. Nên không còn khoảng lặng (tập mờ) cho độc giả tiếp tục đồng sáng tạo?! Ấy là nói từ phương diện lý tưởng. Tuy vậy, như cổ nhân nói “có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”. Đọc xong Đường sáng của nhà văn Nguyễn Văn Mạnh, tỉnh trí ra, tôi nhận thấy trong đó có cả hoa, có cả nụ. Tôi tin nhiều người cùng nghĩ như thế.
Mọi lời bình dù có thấu đáo đến đâu cũng không thể thay thế được việc đọc trực tiếp tác phẩm. Vì thế, tôi tin tưởng sâu sắc vào việc đón nhận một văn bản nghệ thuật thành công từ mỗi độc giả thông minh, cũng có thể khó tính và cầu toàn, trên từng trang văn của Đường sáng.
Hà Nội, tháng 11.2025
B.V.T