- Lý luận - Phê bình
- Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
NGUYỄN CÔNG THANH
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.

Bìa tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng
1. Mâm cỗ cúng gia tiên cuối năm
Trong văn học hiện đại Việt Nam không hiếm những tác phẩm viết về những thú vui tao nhã, về văn hoá ẩm thực như uống trà, nhắm rượu, chơi hoa, thả thơ, thưởng thức các món ăn dân tộc… Nhiều sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng đã nói đến Miếng ngon Hà Nội, Hương cuội, Giò, Phở… Nhưng viết về bữa ăn ngày tết một cách tỉ mỉ, sống động và đầy cảm hứng thì phải đến Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng mới xuất hiện trên trang văn. Nhà văn gần như dành hai phần đầu của cuốn sách nói về việc mua sắm, chế biến, nấu nướng, bày biện, chuyện trò, chúc tụng trong bữa ăn tất niên. Tác giả đi từ khát quát đến cụ thể, từ diện đến điểm trong cách miêu tả. Vẫn giọng văn hùng hồn, có sự kết hợp giữa tả, kể với bình luận, triết lý mà sao tha thiết, sống động đến vô cùng. Ma Văn Kháng chọn tả một số nét đặc sắc của việc chuẩn bị mâm cỗ cuối năm như mua sắm thịt cá, gia vị… Các đồ hàng, có khi được hiện lên sống động qua ngôn ngữ người kể chuyện: “Trên mặt bàn, dưới nền đá hoa là bức tranh tĩnh vật ngổn ngang, mầu mỡ, đầy phong vị ngày tết. Trên bàn, dưới đất là cuộc trưng bày, là vật chất hoá tính lo toan tỉ mẩn, tài tháo vát, chu đáo và sự khéo khôn, thành thạo của Lý (…). Tất cả là thịt, là rau, là miếng sống, miếng chín vẫn ăn cả thôi mà sao vẫn hiển hiện vẻ đặc sắc khác thường!”. Có khi, nhà văn để cho nhân vật liệt kê, nhẩm tính tự nhiên theo kiểu bà nội trợ chỉn chu, cẩn trọng đang đếm tính chi ly từng thứ hàng đã mua hay còn thiếu:
“Đập tay lên trán, mặt nhăn nhăn, miệng lẩm bẩm:
- Bánh kẹo, mứt, bìa gia đình mua rồi. Pháo mua rồi. Dưa mua rồi. Tiêu sọ có rồi (…). Còn gì nữa nhỉ? Vịt, gà mai mới mua. Mộc nhĩ, nấm hương hãy còn đủ. Thôi chết, rõ ràng hàng bấc thì qua, hàng quà thì tới. Cái cặp chả! Lại quên mua rồi.
- Bánh đa nem, chị?
- Đấy, không nhắc lại quên (…). Gì nữa nhỉ? Khéo ăn phải cháo lú. À húng lìu, cà ri, sáng mai cô nhắc tôi nhé. Đấy suýt quên, ớt! Sáu hào một quả đấy!…”.
Tuy nhiên, trung tâm bữa ăn ngày tết là phần nấu nướng, chế biến các món ăn. Ma Văn kháng đã dồn tất cả bút lực vào miêu tả những món ăn đã được bàn tay nội trợ tài giỏi, khéo léo của Lý chế biến, sắp xếp. Ông không chỉ tỉ mỉ chi chút giới thiệu các món xào, nấu, hầm, luộc, rán, quay… được bày biện tinh tươm trong những tô bát trắng bong, mà còn không tiếc lời ngợi ca vẻ đẹp lung linh trong niềm say mê dồn trút hồn mình vào công việc bếp núc của Lý. Chị thực hiện thiên chức cao quý của mình với một sự say mê vô cùng, tận tuỵ vô cùng. Không một dấu vết của sự cẩu thả, tắc trách. Không một chi tiết tuỳ tiện, được chăng hay chớ. “Lý trút vào công việc tất cả sự sung sướng và kiêu hãnh vì được bộc lộ mình. Mọi việc dù to dù nhỏ, cũng đều hút hồn chị. Và những gì gọi là vật chất cụ thể, đã biểu hiện ra, nhờ bàn tay chị động vào, nhờ con mắt chị soi tới, nhờ ánh hồn chị chiếu xuống, đều óng ánh một linh hồn sống động”.
Trong tâm linh người Việt, bày biện mâm cỗ vào chiều tối ba mươi tết là để thỉnh mời vong linh những người thân yêu đã khuất về hưởng phúc lộc, hương hoa với con cháu trong ba ngày tết; là dịp gặp mặt những người ruột thịt sau cả năm trời xa cách hay bận rộn công việc. Là nhà văn hiểu sâu sắc phong tục truyền thống dân tộc, Ma Văn Kháng không đi sâu miêu tả cảnh ăn uống mà tập trung đặc tả bàn thờ gia tiên, thái độ thành kính, trang nghiêm, tâm trí phiêu diêu, lãng đãng của ông Bằng trong giây phút thiêng liêng “thưa chuyện” với tổ tiên, cha mẹ khi khấn lễ; miêu tả không khí ấm cúng, chuyện trò râm ran cùng những lời chúc tốt lành của các thành viên gia đình trong bàn tiệc.
Đọc những trang văn miêu tả bữa ăn tất niên sống động, đầy cảm hứng trong Mùa lá rụng trong vườn, chúng ta nhận thấy Ma Văn Kháng không chỉ là người quan tâm đưa ngôn ngữ chính luận tràn vào văn chương nghệ thuật mà còn có khả năng quan sát tinh tế, tả cảnh, tả tình rất đặc sắc.
2. Khu vườn dịu mát và bản nhạc cổ điển du dương
Mỗi lần lật giở Mùa lá rụng trong vườn, ta tưởng như lại nghe tiếng ve kêu râm ran, tiếng lá cây xào xạc hoà cùng âm thanh êm ái, dịu dàng của bản nhạc Vườn khuya. Khu vườn nhỏ xinh xắn, toả bóng mát quanh năm được Ma Văn Kháng nhắc đi nhắc lại mười hai lần trong tác phẩm. Mỗi lần, khu vườn hiện lên với một nét đẹp quyến rũ riêng. Xuân về, cây bật nẩy chồi non, khu vườn toả một làn không khí tươi lành và thanh tịnh. Chớm hạ, cây xanh đầm lá non toả hương thơm ngào ngạt, từng chùm quả non tơ xanh như ngọc lấp ló trên cành cây. Thu sang, hoa táo bung trắng ngà cả một góc vườn. Đông đến, cây thu hình gọn ghẽ, vườn cây dang tay đón đợi ánh trăng non ghé xuống tâm tình. Vườn cây trở thành người bạn đồng hành chứng kiến, sẻ chia, an ủi từng con người trong ngôi nhà. Bóng cây toả mát căn buồng, gợi cảm hứng cho ông Bằng lúc làm việc. Vườn cây giúp ông thư giãn sau những giờ mệt nhọc. Vườn cây đem lại trạng thái cân bằng cho Lý sau một ngày vật lộn với công việc căng thẳng ở cơ quan. Dưới bóng cây, chị có cảm giác bình yên, thanh thản. Vườn cây gắn kết với chị Hoài biết bao kỷ niệm. Đây là nơi chứng kiến lần gặp gỡ cuối cùng của vợ chồng chị trước lúc anh ra trận và rồi xa chị mãi mãi. Dù xa khu vườn đã lâu nhưng khi trở lại, mỗi loài cây trong vườn lại hiện lên sống động trong tâm trí chị. Chị vừa dạo bước trong vườn vừa âu yếm, thủ thỉ với từng cây như người mẹ sau một thời gian đi xa vỗ về, ve vuốt những đứa con yêu. Vườn cây là nơi chứng kiến những lời yêu thương, đồng cảm của Luận và Phượng. Vườn cây cũng là nơi hò hẹn của Cần và Vân. “Cây là chứng nhân có linh hồn, cây rung động với những tấm lòng chân thật”. Cây “bỗng rào rào lá và lộp độp buông sương” thấu hiểu cho tâm trạng xót xa, lưu luyến khu vườn của Phượng. Cây “nhu nhú những hạt sương treo, trông như những giọt nước mắt” khi nghe những lời nói xúc động, chân tình của chị Hoài về gia đình nhà chồng cũ. Cây rung cảm với giai điệu du dương của bản nhạc Vườn khuya. Cây xúc động khi bàn tay nóng ấm của chị Hoài ve vuốt. Nhờ vườn cây và bản nhạc cổ điển mà dòng mạch trữ tình ở Mùa lá rụng trong vườn càng trở nên êm ả, dịu dàng, phần triết luận được cân bằng trở lại. Người đọc có cảm giác đang được ngồi “Dưới bóng hoàng lan” mát rượi hay thưởng thức “nắng hàng cau” ban mai trong khu vườn “xanh như ngọc” nơi thôn Vĩ mộng mơ. Miêu tả vườn cây sống động, có hồn là một cách tiếp nối truyền thống đẹp đẽ đã được khởi đầu từ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng…
3. Vẻ đẹp của tình người, của những giá trị đạo đức truyền thống
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Chị vốn là con dâu trưởng, nhưng giờ đây chị đã có một gia đình riêng với bao lo toan vất vả cho cuộc sống chồng con. Mặc dù hình ảnh chị vẫn in đậm trong tâm thức mọi người nhưng không ai dám, không ai nỡ níu kéo chị về mình. Ao ước chị xuất hiện, chị trở về nhưng khi chị về thật, khi chị hiện diện bằng da bằng thịt trước cổng nhà mọi người vẫn “ngơ ngơ, ngác ngác” không tin vào mắt mình. Ông Bằng - người bố chồng và là người gắn bó với chị nhiều nhất - nghẹn ngào cảm động. Nhìn thấy chị, ông bỗng “sững lại”, “thoáng chút ngậm ngùi”, mắt chớp liên hồi, môi “lập bập không thành tiếng”. Chị cũng không làm chủ được mình lao về phía ông, rồi thốt lên tiếng ông như một tiếng nấc. Ngay cả tác giả cũng run rẩy xúc động khi viết về cuộc gặp gỡ cảm động này. Giọng văn hùng hồn, giàu chất triết luận thường ngày của Ma Văn Kháng bỗng trở nên ngập ngừng, đằm thắm. Nhiều điệp từ được dùng, nhiều tiếng nấc bật ra, hình ảnh “mắt chớp chớp”, “mắt ngấn lệ”, “những cơn sóng nghẹn ngào” bao trùm cả đoạn văn.
Gia tăng chất trữ tình, giảm lược chất triết luận trong việc miêu tả tâm trạng rưng rưng xúc động của chị Hoài và những người thân trong gia đình ông Bằng chiều ba mươi tết là một tìm tòi công phu, đầy sáng tạo của Ma Văn Kháng trong việc khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, để đạt được ý đồ nghệ thuật trên, nhà văn có phần lý tưởng hoá nhân vật chị Hoài.
Trong quá trình tìm kiếm cho mình một phong cách nghệ thuật riêng, Ma Văn Kháng là nhà văn luôn dị ứng với kiểu viết công thức, rập khuôn theo những lối mòn quen thuộc. Ông không bao giờ bằng lòng với chính mình mà luôn tự đổi mới, vượt lên chính mình. Vào đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước, Ma Văn Kháng đã mạnh dạn đổi mới tư duy nghệ thuật, chuyển mạch văn ngợi ca giàu chất trữ tình, rưng rưng hào sảng sang khuynh hướng phê phán. Tuy nhiên, những trang văn viết về nét đẹp văn hóa truyền thống của ông trong Mùa lá rụng trong vườn cũng vô cùng mềm mại, đằm thắm, gây xúc động sâu sắc cho các thế hệ độc giả.
N.C.T