TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển

Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-12-05 18:29:17
mail facebook google pos stwis
9 lượt xem

Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước. (Ảnh: Mai Lữ)

 

Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới, Văn học nghệ thuật Việt Nam phải đối mặt với nhiều “điểm nghẽn” kéo dài, đòi hỏi phải có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy, cơ chế vận hành và phương thức tổ chức để khơi thông nguồn lực sáng tạo.

Những thảo luận sôi nổi tại các diễn đàn quan trọng gần đây nhất là Hội nghị toàn quốc tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước và Hội thảo khoa học của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh vừa mới tổ chức đều thẳng thắn chỉ ra những bất cập để tìm kiếm giải pháp căn cơ, nhằm thực hiện hiệu quả tinh thần Kết luận 84-KL/TW, Nghị quyết 23-NQ/TW, Nghị quyết 33-NQ/TW và chủ trương chấn hưng văn hóa của Đảng.

Nhận diện những "điểm nghẽn" cản trở sáng tạo

Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước đã chỉ rõ: Trong suốt chặng đường 50 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Văn học nghệ thuật Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, phát triển mạnh mẽ từ tư duy lý luận đến thực tiễn sáng tạo và xu hướng tiếp nhận.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, nền Văn học nghệ thuật nước nhà phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và đang đối diện với nhiều thách thức gay gắt. Đáng chú ý là công tác lý luận và phê bình hiện nay chưa theo kịp thực tiễn sáng tác mới và sự biến đổi của thị trường nội dung số. Nhiều tác phẩm tốt không được nhận diện đúng mức; trong khi đó, những hiện tượng lệch chuẩn lại có thể gây ồn ào dư luận, tạo sự nhiễu loạn giá trị. Sự thiếu hụt các nhà phê bình chuyên sâu, thiếu diễn đàn học thuật chất lượng và thiếu chính sách hỗ trợ nghiên cứu dài hạn đã khiến công tác phê bình "đuối hơi" trước dòng chảy sáng tạo đa dạng, nhanh và rộng…

Tại Hội thảo khoa học của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Trường Lưu cũng chỉ rõ, tình trạng không ít tác phẩm vẫn "xoay quanh câu chuyện cá nhân ở một vùng miền cụ thể," chưa phản ánh được đời sống đô thị năng động, chưa chạm tới những vấn đề mới như chuyển đổi số, biến đổi xã hội, hay áp lực công dân trong thời đại toàn cầu hóa. Khoảng trống về chủ đề và hạn chế trong cách đặt vấn đề khiến một bộ phận tác phẩm chưa bắt nhịp với yêu cầu của đời sống hiện đại, vốn vận động phức tạp từng ngày với các vấn đề về môi trường, di dân, thách thức số hóa, và văn hóa tiêu dùng. Đây không chỉ là hạn chế về kỹ thuật sáng tác, mà còn là yêu cầu đổi mới tư duy, làm mới góc nhìn, mạnh dạn đi vào những chủ đề gai góc thay vì an toàn, chung chung.

Ở một góc nhìn khác, Đạo diễn, nhà báo Tăng Hoàng Thuận lại lo ngại “bệnh thành tích hình thức" vẫn còn tiếp diễn, đặc biệt là ở các lĩnh vực sân khấu. Tình trạng các vở diễn "làm để đạt huy chương," không có đời sống sân khấu thực sự và giá trị nghệ thuật không được kiểm nghiệm. Có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến các lĩnh vực truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, nhạc cụ dân tộc nhiều năm nay vẫn đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt lực lượng kế thừa.

Trong kỷ nguyên mới, không gian số vừa tạo cơ hội nhưng cũng gây ra thách thức lớn khi các sản phẩm giải trí "nhanh, rẻ, dễ xem" tràn ngập trên mạng, lấn át giá trị tinh thần đích thực. Trong khi đó, nghệ thuật công cộng - đặc biệt là mỹ thuật, điêu khắc đô thị chưa phát huy được vai trò "làm đẹp tâm hồn" và tạo điểm nhấn bản sắc. Mặc dù là thành phố lớn, có đời sống nghệ thuật sôi động như Thành phố Hồ Chí Minh nhưng dưới góc nhìn của GS.TS Nguyễn Xuân Tiên, Chủ tịch hội Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh văn học nghệ thuật ở đây đặc biệt là mỹ thuật vẫn "thiếu tác phẩm dấu ấn," thiếu hòa nhập với không gian đô thị.

Đánh giá về nguyên nhân dẫn tới những bất cập này, ở nhiều diễn đàn các văn nghệ sĩ hầu hết đều cho rằng nguyên nhân căn bản vẫn là do chính sách hiện hành "chưa đi vào đời sống"; cơ chế tổ chức các hội thi, liên hoan, đặt hàng tác phẩm còn lúng túng, nặng tính hành chính. Quá trình thực thi Kết luận 84-KL/TW về việc chuyển giao vai trò tổ chức liên hoan-hội diễn cho hội chuyên ngành còn chậm, khiến hoạt động nghệ thuật thiếu chuẩn mực nghề nghiệp và thiếu sự kiểm chứng chuyên môn…

Khơi thông sáng tạo, đổi mới cấu trúc vận hành

Để khơi thông những điểm nghẽn tạo điều kiện cho văn học nghệ thuật nước nhà phát triển mạnh mẽ hơn có lẽ điều quan trọng nhất như GS.TS Nguyễn Xuân Tiên, Chủ tịch hội Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Hội thảo khoa học của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh là chúng ta phải đổi mới thể chế và chuyển giao thực quyền theo tinh thần Kết luận 84-KL/TW; phân định vai trò trong đó cơ quan nhà nước giữ vai trò quản lý, còn sáng tạo và tổ chức nghề nghiệp thuộc về hội chuyên ngành, nghệ sĩ và các đơn vị sáng tạo; chuyển giao thực quyền tổ chức liên hoan, hội diễn cho các hội chuyên ngành; coi hội nghề nghiệp là chủ thể phản biện, chủ thể thẩm định. Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện hành lang pháp lý linh hoạt, minh bạch, giảm thủ tục hành chính cho các dự án nghệ thuật.

Để ngăn chặn tình trạng “chạy thành tích,” và nâng cao chất lượng nghệ thuật, nhiều văn nghệ sĩ cũng thống nhất rằng, cần phải xây dựng cơ chế “tự chủ-trách nhiệm-minh bạch” cho các hội văn học nghệ thuật, nhất là ở các đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Bên cạnh đổi mới cơ chế, cần tăng cường đầu tư trọng tâm và tạo môi trường sáng tác chuyên nghiệp. Nhà nước cần tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực ưu tiên, các tác phẩm lớn về đề tài thời đại, nghệ thuật truyền thống, các dự án nghệ thuật công cộng, sáng tạo số và nghệ thuật đa phương tiện, đào tạo tài năng trẻ…Đặc biệt cần hình thành mô hình hợp tác công tư trong văn hóa-nghệ thuật, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào mỹ thuật công cộng, phim, sân khấu, công nghiệp văn hóa…

Đầu tư cho nguồn nhân lực sáng tạo là "vốn quý", vì vậy cần chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu thị trường và xu hướng sáng tạo mới, tăng cường hợp tác quốc tế, đưa nghệ sĩ trẻ đi học tập và thực hành nghệ thuật ở nước ngoài. Các chương trình học cần đi đôi với không gian thực hành sáng tạo, và cần hỗ trợ sáng tác đầu tay, cung cấp nền tảng số để quảng bá tác phẩm cho nghệ sĩ trẻ.

Cuối cùng, qua các diễn đàn các văn nghệ sĩ, nhà quản lý đều khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của công tác phát triển lý luận-phê bình. Phát triển mạnh lý luận-phê bình là then chốt, để khơi dậy vai trò dẫn dắt thẩm mỹ. Chỉ khi phê bình mạnh, dòng chảy nghệ thuật mới trong lành; giá trị đích thực mới được tôn vinh; sai lệch mới được uốn nắn.

Một khi các giải pháp đồng bộ được triển khai, cùng với quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận xã hội rộng lớn, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng văn học nghệ thuật nước nhà sẽ có bước phát triển mới, thực sự là nền tảng tinh thần và động lực góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thanh Thảo/Báo Nhân Dân

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm