TIN TỨC
  • Truyện
  • Anh Hai Lượng | Triệu Bốn

Anh Hai Lượng | Triệu Bốn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-06-09 06:02:51
mail facebook google pos stwis
1638 lượt xem

CUỘC THI TRUYỆN NGẮN HAY 2022

TRIỆU BỐN

Trưa nắng nóng tiết trời tháng chạp trước Tết, khoảng 11 giờ, anh Triệu bước vô nhà anh Hai Lượng. Anh Hai đang ngồi trước thềm bưng tô cơm với một khúc cá kho để lên trên, nhìn anh Triệu cười cười. Rồi nói trống không: «Vô đây ngồi chơi đi!». Nói xong, anh Hai múc một muỗng cơm ăn ngon lành. Anh Triệu hỏi anh Hai khỏe không thì anh ngước nhìn chăm chú nói: «Khỏe, hì hì!». Anh Hai dạo này già hơn năm ngoái nhiều, tóc đã thưa lốm đốm sợi bạc, gương mặt hốc hác của người mới vừa nhẹ bệnh.   

Anh Hai Lượng sinh năm 1941, năm nay đã 80 tuổi, là con riêng của má anh Triệu vì khi gặp ba anh Triệu thì má đã có một đời chồng và 2 con trai: anh Hai Lượng và anh Ba Y. Có lẽ cha mẹ muốn con cái sau này giàu sang nên đặt tên như vậy. Anh Ba ở cùng với má và ba sau. Như vậy, anh Triệu và anh Hai là anh em cùng mẹ khác cha. Nghe nói ba anh Hai đi lính bị tử trận nên má phải đi bước nữa.

Ngay từ khi mới lọt lòng, anh Hai mắc chứng động kinh và thiểu năng trí tuệ. Anh Hai Lượng không thể đi học được, nói năng chập chòa chập choạng, không đầu không đuôi, lúc nhớ lúc quên. Hồi đó nhà ông ngoại còn khá giả nên anh Hai Lượng được nuôi nấng tử tế và lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người. Rồi ông ngoại mất, cậu Ba (em của má) lo ăn chơi, không làm chủ được cơ ngơi để lại. Một thời gian sau, của cải, đất đai đội nón ra đi, cảnh nhà dần sa sút, cậu Ba vướng bệnh lao hiểm nghèo chết sớm. Bà ngoại từ nhỏ không biết làm gì ngoài việc nội trợ nên gia đình lâm vào cảnh bi đát. Má anh Hai lấy chồng sau (tức là ba anh Triệu), đi theo chồng làm ăn chật vật nên chẳng giúp gì cho nhà bà ngoại. Lớn lên một chút, anh Hai bị bắt lính khi vừa 18 tuổi. Nhờ sức vóc vai u thịt bắp, anh Hai được bố trí làm việc nặng nhọc trong gia đình một sĩ quan chế độ cũ.

Sau 3 năm, anh được cho giải ngũ trở về mà không có nghề ngỗng gì. Trong ký ức mơ hồ dội lại vài hình ảnh đậm nét mà anh hay kể là có lần bị tên sĩ quan đánh nhừ tử vì làm bể chậu kiểng quý.

Đói nghèo nên phải bươn chải. Nhà chỉ có 2 người, bà ngoại và anh. Nhờ sức khỏe tốt, anh Hai được người ta mướn làm đủ thứ, từ gánh nước, bửa củi, làm cỏ, cuốc đất, đắp nền, đào giếng... Ai kêu gì làm nấy, đủ tiền mua gạo, mắm muối, đôi khi thêm khúc cá nhám (loại cá mập nhỏ mà dân nghèo miệt Đất Đỏ hay kho ăn vì giá rẻ), sống qua ngày. Anh không nhớ gì cả, chỉ nhận biết sơ sài những cảnh vật, con người xung quanh. Thỉnh thoảng anh lên cơn giựt kinh phong, té lăn ra đất, sùi bọt mép. Bà con đi đường hoặc chủ mướn phải đỡ dậy, cho uống nước chanh, cạo gió, xoa dầu một hồi thì hết như chưa có chuyện gì xảy ra và anh lại đi làm tiếp. Anh làm ở đâu cũng bị người ta ăn hiếp, chửi bới, bắt làm thêm, xén bớt tiền công. Tiền làm mướn không thể tính được phải nhờ bà ngoại đến chỗ chủ lấy dùm để mua đồ ăn, xài lặt vặt trong nhà, quần áo rách nát vá chằng vá đụp, ai cho gì mặc nấy. Cũng may, miếng đất khá rộng, ông ngoại cất nhà ở từ lâu vẫn giữ được đến bây giờ. Trên đó, có mấy gốc me sai trái. Những năm 60, 70 thế kỷ trước, anh Hai trèo hái me chín bán cho người ta làm mứt kiếm được ít tiền hàng năm, có lúc cho mướn nguyên cây để tự người ta hái trái khi tới mùa. Lây lất trong nghèo khổ, vậy mà vẫn tồn tại qua ngày rộng tháng dài. Nhà cũ lâu đời mục nát không có tiền sửa chữa, sập mái hư nền cũng để nguyên vậy mà ở.

Rồi một lần đi làm mướn tại xã kế bên, anh quen chị hay đúng hơn là chị làm quen với anh Hai. Chị, người nhỏ thó, lem luốc, nhà rất nghèo, sắc diện tầm thường nếu không muốn nói là xấu xí, giọng nói đớt không rõ lời cũng không biết chữ. Nhà chị ở cuối đường đất bên rìa ấp, thường đi làm mướn cho hàng xóm khu vực đó. Không hiểu sao, về nhà anh Hai nói với bà ngoại là muốn lấy chị làm vợ.

Rồi cũng nên vợ nên chồng khi chị xách gói về ở với anh Hai sau một bữa cơm đạm bạn ra mắt họ hàng. Chị vẫn tiếp tục đi làm mướn cùng anh, hai vợ chồng sống với bà ngoại ngày càng già trong căn nhà lụp xụp trống huơ trống hoác. Vậy mà mấy năm sau, chị liên tiếp đẻ 3 đứa con gái đặt tên là Hoàng, Bạch, Tuyết. Cuộc sống càng cơ cực khi có thêm con nhỏ, có lúc phải xin gạo, thức ăn từ hàng xóm hoặc bà con gần xa mới đủ sống. Lớn một chút, tụi nó cũng được đi học trường nhà nước kiếm ít chữ nghĩa làm vốn với đời. Lớp 3, lớp 4 thì nghỉ, bắt đầu bươn chải mưu sinh giúp gia đình. Cũng may là chính quyền địa phương và họ đạo (vì gia đình bà ngoại theo đạo Công giáo) thấy hoàn cảnh khó khăn quá nên giúp xây nhà tình thương trên nền nhà cũ đã hư nát. Thời gian trôi vùn vụt, 3 đứa con gái ngày một lớn khôn; bà ngoại tuổi già sức yếu, bệnh tật chỉ húp cháo cầm hơi và ra đi về nước Chúa vào một ngày hè nóng nực.

Các con lớn lên như ngọn rau dại mọc cạnh hàng rào, cọng cỏ vươn mình ngoài bãi đất, nắng gió thênh thang. Tụi nhỏ không giống ba má nó, sinh ra bình thường và ngoan ngoãn trong cảnh nhà cơ cực. Rồi cũng có được chồng con tạm ổn tuy chưa đứa nào khá giả nên đâu có phụ gì thêm cho cha mẹ nó. Thương nhất là con Hoàng - chị Hai (con cả), lấy chồng ở miệt Long Tân. Nhà nghèo, hai vợ chồng làm mướn tất bật không đủ nuôi con. Đến một ngày, chồng chở vợ trên chiếc xe máy cũ bị tai nạn thảm khốc, và Hoàng ra đi mãi mãi, chồng nó bị thương nặng nhưng còn sống trở thành «gà trống nuôi con» thấp thỏm với cuộc đời. Vậy mà trời vẫn chưa tha, cách đây 3 năm, vợ anh Hai mất vì bạo bệnh. Hôm về tiễn đưa chị Hai, ngồi ngoài chái hiên nhà, đối diện với quan tài, anh Triệu nhìn anh hai Lượng cười cười với khách viếng đám tang nói: Bữa nay sao đông người vui quá! Anh Triệu bần thần không thể thốt nên lời...

Anh Triệu may mắn được học hành đến nới đến chốn, sau làm nhà nước rồi rước má lên ở chung tại Sài Gòn. Ngày má mất, con anh Hai đưa lên chịu tang má, ảnh vào nhà nằm hoài rồi con đưa về, chắc cũng không biết mẹ mình đã mất.          

Cuối cùng, chỉ có Tuyết - con gái út, không theo chồng đi chỗ khác vì muốn chăm sóc cho cha. Giờ đây anh hai Lượng ở với con gái út và cháu ngoại - thằng Trung con của Tuyết, trong căn nhà nhỏ tường gạch, mái tôn không có đồ đạc gì đắt tiền nhưng khá ấm cúng. Tuyết làm công nhân cho một công ty gần chợ Đất Đỏ với đồng lương ít ỏi, thằng Trung gần đây đã đi làm phụ mẹ, chi tiêu tằn tiện mới nuôi anh Hai và hai mẹ con qua ngày đoạn tháng. Lâu lâu, ảnh té đầu gối rách bươm, phải mua băng, thuốc đỏ sức rồi cũng nhẹ. Một tháng đôi lần, ảnh giựt kinh phong, lăn dưới đất, nếu không có con cháu ở nhà thì nhờ hàng xóm giúp, rồi cũng qua.

Anh Triệu ngán ngẩm nói chuyện với anh Hai mà như nói một mình, đi ra sau nhà coi qua một lượt, chỉ có cái tủ cũ đựng thức ăn, trong đó có nồi cá kho nước lỏng bỏng; một cái bếp dầu chỏng chơ đen nhẻm. Anh lên thắp hương trên bàn thờ ông bà ngoại, anh Ba Y, chị Hai (vợ anh Hai). Chỉ là một tấm ván đơn sơ, bụi bặm đặt mấy tấm hình thờ trắng đen nhỏ hơn bàn tay, đã bong tróc lỗ chỗ và một bát nhang nằm chếnh choáng. Con nhện đang giăng tơ một góc vách hoen ố màu thời gian.

Trời ngày càng nắng gắt, cây bàng nhỏ mới trồng năm ngoái ở trước sân không đủ làm dịu cái nóng hanh tháng chạp. Anh Hai vẫn múc cơm ăn, ánh mắt nhìn xa xăm vào khoảng hư không vô tận. Lát sau, anh Triệu gọi điện cho Tuyết báo là chú Năm Triệu có về thăm, chúc Tết, cho ít quà xuân. Trước khi ra đi, anh Triệu nhét vào túi anh Hai 200 ngàn dặn kỹ là không để ai hoặc hàng xóm qua móc túi lấy; chiều về, Tuyết sẽ giữ để anh Hai xài Tết. Mấy năm trước, mỗi lần ghé, anh Triệu cho anh Hai 1 triệu đồng nhưng sau đó nghe nói bị hàng xóm thấy qua nhà lấy mất nên giờ chỉ đưa 200 ngàn thôi. Cũng may, anh còn có con nhất là con Tuyết hiếu để với cha mẹ, thương và chăm sóc anh chu đáo. Vì cha mà nó đành bỏ chồng để ở lại nhà lo cho anh Hai khi chồng nó có công việc mới tại Long Hải.        

Mùa Covid năm nay, Tuyết đi làm và ở lại công ty «3 tại chỗ», mọi sinh hoạt của anh Hai đều nhờ cháu ngoại và bà con hàng xóm giúp. Hết giãn cách, Tuyết trở về thấy cha và thằng Trung an toàn nên rất mừng. Nhưng hôm sau, anh Hai đã ị ra quần trây trét làm Tuyết một phen phải ra tay dọn dẹp, giặt giũ oãi luôn. Thằng Trung cười nói: «May quá, cả tuần nay, ông ngoại không ỉa ra quần nên con đỡ khổ, hi hi…».

Anh Hai Lượng vẫn ngày qua ngày trong bình an nghèo khó nhưng chắc là ảnh hạnh phúc qua ánh mắt xước vào không gian trống rỗng, nụ cười hồn nhiên đến mộc mạc khi có cái ăn no, ngủ ấm là quá đủ rồi. Đời cứ thong thả trôi đi. Lại một mùa xuân nữa sắp về… Không biết còn bao nhiêu cái Tết, anh Triệu có thể ghé thăm anh Hai đây!

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người giữ mùa gió – Truyện Chu Phương Thảo
Con đường làng mùa hạ vẫn bụi mờ và khét nắng như thuở nào. Giữa cánh đồng khô cháy, một cậu bé gầy gò đang lom khom mò cá trong mương nước đục. Chiếc quần vá, đôi chân trần rớm máu vì gai cỏ nhưng ánh mắt sáng, kiên cường như muốn nuốt trọn cả chân trời nắng gắt.“Vũ ơi, về đi con, trưa rồi! Mẹ nấu cơm xong hết rồi đó!” Tiếng người phụ nữ gầy yếu gọi vọng từ xa, lạc giữa gió Lào bỏng rát. Cậu bé quay lại, cười toe toét:“Con bắt thêm con cá nữa thôi mẹ ơi! Tối nay mình có canh cá ăn nha!”
Xem thêm
“Quyền năng của người lớn” – Truyện ngắn Nguyễn Bình An
Giấc ngủ trưa của tôi bị phá tan bằng một thứ âm thanh làm tôi giật thót mình - tiếng mẹ chửi con.Mày đi khỏi nhà tao! Tại sao mày uống ca cà phê mà không dẹp? Đợi tao dẹp ha gì? Tao là mẹ mày hay ở đợ cho mày? Nội dung câu chửi cũng không đến mức khủng khiếp. Nhưng cái giọng chửi thì đáng kinh. Nó the thé, hoằm hoặm. Đó là tiếng chửi mà Bích trút xuống đứa con trai mới tám tuổi của mình - thằng Long. Long ngồi thu mình lại sát góc nhà. Hai tay như đang cố bịt tai. Hai chân dạng, lưng ngả ra sau tìm điểm tựa nơi vách nhà. Mắt mở thao láo, vô hồn. Dù cây cần nước để sống. Nhưng Long như một cây non quằn quại dưới làn nước mạnh liên tục dội tạt vào. Nó oặt mình đi. Bà mẹ trẻ đang dạy con hay đang trút hằn học trong người? Dũng - chồng Bích - đi làm gần hai tháng nay chưa thấy gửi tiền về. Những cuộc điện thoại của Bích gọi đi trong nước mắt nhưng Dũng luôn đáp lại bằng sự hững hờ.
Xem thêm
Nước cuốn bông tràm – truyện ngắn Chinh Văn
Lý do trở về cửa biển nầy của chị là gì?. Mỏi gối chồn chân hay hương tàn sắc nhạt?, nhớ cố hương hay lương tâm lên tiếng?, chính chị cũng không trả lời thỏa đáng. Cũng có thể là tất cả những cái đó thôi thúc chị về quê. Chỉ biết rằng sau những đau khổ chất chồng, sau những tháng ngày bon chen ở đất Sài Gòn, nay chị về vùng U Minh Hạ nầy nương nhờ nhà vợ chồng đứa cháu để sống qua ngày với nghề buôn bán cá khô.
Xem thêm
Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc - Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Chiều ở Loa Thành lặng như tờ giấy đã ố màu. Không tiếng người. Không bóng ai. Chỉ gió thổi cỏ lau nghiêng ngả, cuốn theo mùi đất xưa lẫn với mùi tro tàn cổ tích.
Xem thêm
Lời hứa - Truyện cực ngắn của Lê Thanh Huyền
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 41 tháng 10/2025.
Xem thêm
Ký ức tuổi thơ tôi – Truyện ngắn Vũ Mạnh Định
Có một miền quê nằm bên dòng Hoàng Long lặng lẽ, nơi triền bãi xanh mướt ôm lấy con nước hiền hòa, nơi mỗi chiều vang lên tiếng chuông chùa Thông Linh Tự và mỗi mùa hội đình lại rộn ràng cờ hoa rợp ngõ. Ấy là quê tôi - thôn Thần Thiệu nhỏ bé nhưng chan chứa tình người, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng trống hội, bằng mùi khói rơm chiều và những câu chuyện lịch sử vọng về từ ngàn xưa.
Xem thêm
Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
“Máu đỏ da vàng” – truyện ngắn của Lại Văn Long không chỉ là bi kịch của một người đàn bà trong vòng xoáy hậu chiến, mà còn là bản hòa ca của lòng nhân và tinh thần hòa giải dân tộc.
Xem thêm
Trạm xá - Truyện Võ Đào Phương Trâm
Đồng hồ bước qua 7 giờ tối, bên ngoài khuôn viên Trạm xá tối om như mực, bác sĩ Nguyên vẫn còn miệt mài với chồng hồ sơ bệnh án, thỉnh thoảng, anh khẽ ngước mặt nhìn ra khung cửa, từng đợt gió thổi nhẹ mang theo chút mùi hương hoa rừng.
Xem thêm
Bông hoa của bản – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Tiếng khóc thút thít của Mai vọng từ phía buồng lại, xóa tan sự tĩnh lặng của đêm. Páo ngồi bên bếp, nồi nước đang sôi ùng ục bốc khói, tay Páo cầm thanh củi cời những viên than hồng rực, ánh mắt vô định nhìn những ngọn lửa bập bùng cháy cũng như lòng Páo lúc này đang không yên. Páo muốn đi vào trong phòng Mai, nói với Mai rằng hãy đứng dậy và bỏ đi cùng anh. Hãy bỏ lại tất cả cuộc sống hiện tại để đến một nơi khác bắt đầu cuộc sống mới như đôi chim cu tự xây tổ mới cho mình, như đôi hoẵng chạy vào rừng sâu sống cuộc sống yên bình... Từ nhỏ Páo đã chứng kiến Mai khổ quá rồi, giờ nếu tiếp tục để Mai chịu khổ hơn nữa anh thấy mình càng vô dụng như khúc gỗ dưới sàn nhà, như cây lá han trong rừng.
Xem thêm
Vùng đất hứa -Truyện Đông Sơn Lữ Khách
Vùng đất hứa – giấc mơ của biết bao người ở một phương trời xa xôi. Nhưng để chạm tới giấc mơ ấy, họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu và sinh mạng. Câu chuyện này được viết để nhắc rằng: Hạnh phúc thật sự không nằm nơi đất khách, mà ở chính quê hương, nơi có tình thân và vòng tay chờ đợi.
Xem thêm
Kịch bản hoàn hảo – Truyện Miên Tình
Đây rồi, cung điện Potala hiện ra như một huyền thoại hóa đá, đứng sững trên đỉnh núi Hồng Sơn, giống như một bài thơ viết bằng gió, bằng tuyết và bằng máu của thời gian. Mái ngói đỏ sậm, tường trắng ngà, tầng tầng lớp lớp như những lớp ký ức quyện vào nhau không thể bóc tách. Cô bước chậm từng bậc thang lên, mỗi bước như dấn thêm vào một thế giới không dành cho người vội vã, từng phút giây đều như chờ đợi giống như cô. Trái tim đập chậm lại, chẳng phải vì độ cao, mà vì một cảm giác vô danh của sự u buồn thánh thiện.
Xem thêm
Như là giấc mơ - Truyện ngắn Huỳnh Ngọc Lan
Nguyên nhà giáo, nhà văn Huỳnh Ngọc Lan sinh năm 1952 quê quán ở Huế nhưng sinh ra và lớn lên ở Vinh, bởi ba chị đi tập kết gặp mẹ chị ở Nghệ An. Thời kỳ Đế quốc Mỹ ném bom khốc liệt bất kể ngày đêm từ Vĩnh Linh đến Quảng Bình rồi Hà Tĩnh và Nghệ An. Lúc này chị đang theo học Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên ngành hóa. Thật đau thương khôn xiết, khi Mẹ và ba người em của chị chết trong một trận bom vùi giữa đêm khuya; sau ngày đất nước thống nhất, chị theo ba về ở Huế quê nội.
Xem thêm
Dưới bóng núi – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Mùa mưa ở vùng biên như một lời thách thức của thiên nhiên. Những con đường mòn dẫn vào bản bỗng hóa thành dải bùn đặc quánh, trơn như mỡ. Mây sà xuống tận mặt người, núi rừng hùng vĩ, hoang dại, đẹp đến nghẹt thở nhưng cũng dữ dằn không kém. Con đường này Khương đã thuộc đến từng khúc cua, từng con dốc và anh biết chỉ cần lỡ tay là sẽ lao xuống vực sâu hun hút. Vượt qua những khó khăn ấy, bản Khe Nặm hiện ra như nốt nhạc bình yên giữa bản giao hưởng dữ dội của núi rừng.
Xem thêm
Bàn tay vịn - Truyện ngắn của Hội An
Truyện ngắn in ở số 153 tạp chí Văn nghệ TP. HCM
Xem thêm
Bố vợ - truyện cực ngắn của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 40 tháng 9 năm 2025.
Xem thêm
Chuông chùa Chân Giáo – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Xem thêm
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Xem thêm
Hoàng hôn trên bờ sông Main - Truyện ngắn của Trần Thủy
Tôi gặp em vào buổi chiều hôm ấy. Khi ánh mặt trời thoắt vàng như mật choàng ngập trên từng ngôi nhà rồi bất chợt lóng lánh màu hổ phách, đổ sang sắc rượu chát thành một vệt dài trầm mặc phủ kín đôi bờ sông Main.
Xem thêm
Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020
Xem thêm