TIN TỨC

Ðạo thơ hay dụng điển?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-06 19:39:15
mail facebook google pos stwis
6188 lượt xem

Lâu nay, “đạo” văn “đạo” thơ vẫn là một câu chuyện dài bất tận không có hồi kết. Những câu hỏi luôn được đặt ra là: Thế nào là “đạo” (văn, thơ)? Ðâu là giới hạn của việc sử dụng sáng tạo những thành quả của người đi trước, ứng dụng có tiếp biến những giá trị đã có sẵn của văn hóa dân gian, của những mô thức ngôn ngữ phổ cập trong tác phẩm của mình để không bị coi là “đạo” văn thơ? Vì sao tác phẩm sáng tác dựa trên một cốt truyện cũ được coi là kiệt tác, trong khi một truyện ngắn phảng phất ý tưởng của một truyện ngắn đã từng đăng trước đấy tác giả vẫn bị coi là “cầm nhầm” đồ của người khác?...

Ðấy là những câu hỏi không dễ trả lời nhưng không thể không trả lời, vì một nền văn chương trong sạch, lành mạnh và khỏe khoắn.

Chuyện đạo thơ ở nước ta nói riêng, đạo tác phẩm nghệ thuật, công trình nghiên cứu nói chung, từ trước đến giờ cũng có nhiều. Khi toàn cầu đã là một thế giới phẳng thì có thể nói, việc đạo thơ đạo văn như cái kim giấu trong bọc trước sau cũng lộ. Tuy thế, mỗi vụ đạo thơ/hoặc bị coi là đạo thơ lại cũng có những đặc điểm riêng biệt gây ra nhiều tranh luận chưa dễ đi đến thống nhất.

1. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh biên soạn có mục từ “đạo thi”, nghĩa là “dùng trộm câu thơ của kẻ khác”. Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) thì có mục từ “đạo văn”, được định nghĩa: “lấy, hoặc căn bản lấy sáng tác văn học của người khác làm của mình”. Từ định nghĩa này mà suy ra, thì cái hành động “đạo văn” hay “đạo thơ” phải là sự “ăn trộm” có tính chỉnh thể, nghĩa là lấy cả một tác phẩm hoặc gần như trọn vẹn tác phẩm thì mới rõ ra cái nghĩa đạo văn. Còn nếu chỉ lấy ý, lấy một câu hoặc một vài câu thì chúng ta cũng cần hết sức thận trọng khi xem xét và kết luận.

Sở dĩ có thể nói như vậy vì văn học trung đại của Việt Nam và Trung Hoa có đặc điểm rất coi trọng việc sử dụng điển tích điển cố, coi đó là một biểu hiện của sự uyên bác, sang trọng. Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du cũng dùng nhiều điển tích, điển cố có nguồn gốc Trung Hoa. Nói cách khác, toàn bộ những sự việc, câu chữ đã trở thành kinh điển, từng được dùng trong sử sách văn chương của thời trước, rồi lại được các tác giả ở thời kỳ sau vận dụng, đưa vào trong tác phẩm của mình, thì không thể gọi là đạo thơ/đạo văn. Chẳng hạn câu thơ trong Truyện Kiều: Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông; chính là được viết ra từ nguyên tác câu thơ của Thôi Hộ trong bài Đề tích sở kiến xứ: Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong (Dịch nghĩa: Mặt người không biết đã đi về nơi nào/ Chỉ có hoa đào là vẫn cười với gió đông như cũ). Hay như câu “Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều” cũng là cách vận dụng điển tích, có gốc từ câu thơ của Đỗ Mục trong bài Xích Bích hoài cổ: Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiều (Cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước khóa chặt hai nàng Kiều). Cho đến thời kỳ Thơ Mới (1932 - 1945), nhiều thi sĩ lãng mạn vẫn còn ưa lối vận dụng điển tích điển cố, nhất là từ các tác phẩm Đường thi. Hai câu kết trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận: “Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là sự dụng điển hai câu thơ của Thôi Hiệu trong kiệt tác Hoàng Hạc lâu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Thi sĩ Nguyễn Bính còn hơn một lần đưa nguyên văn những câu thơ cổ vào các bài thơ của mình: Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu (Viếng hồn trinh nữ), Thiên hạ “chi nghinh Nam Bắc điểu”/ Tình đời “diệp tống vãng lai phong” (Xuân tha hương).

Sau này, Nguyễn Bính còn có một bài lục bát tập Kiều nổi tiếng, mỗi câu thơ là một câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đó cũng có thể xem là một cách dụng điển thú vị và cực kỳ tài hoa.

2. Từ sau 1975, việc dùng điển tích điển cố trong văn chương ít hơn trước nhiều. Nhưng việc một tác giả đi sau mượn ý thơ hoặc một vài câu thơ trong một tác phẩm ra đời trước mình không phải là ít. Năm 1981, thi sĩ Bùi Chí Vinh đã mượn thi đề Tống biệt hành của Thâm Tâm để viết một bài thơ mới với nhan đề Phản Tống biệt hành, được giới học sinh, sinh viên một thời khá yêu thích: Đưa người ta cứ đưa sang sông/ Không sợ tiếng sóng ở trong lòng/ Thâm Tâm lên núi mà tống biệt/ Ta về biển mặn hóa dòng sông. Ngay như trong ca từ của ca khúc nổi tiếng Người Hà Nội, Nguyễn Đình Thi cũng dùng lại nguyên văn một câu trong bài Tiến quân ca của Văn Cao: “Đoàn quân Việt Nam đi” và sau đó mới là “Hà Nội say mê chen đón Cha về kín trời phơi phới vàng sao”. Như vậy, việc dùng một vài câu hoặc ý thơ khó lòng coi là đạo thơ. Điều này khác với việc toàn bộ chỉnh thể tác phẩm bị sao chép hoặc lấy gần như trọn vẹn ý tưởng trong các phần của tác phẩm. Bài thơ Thưởng trà đầu xuân cùng bạn của Trần Đăng Khoa, nguyên tác là một bài thơ 5 chữ với 12 câu, đã bị một tác giả tên là N.C.C ở Hội VHNT Bắc Ninh chuyển thể sang lục bát và đề tên của mình. Trong trường hợp thế này thì mới có thể gọi là đạo thơ. Xin chép lại ra đây cả nguyên tác và bản lục bát: Nhấp chén trà thứ nhất/Da thịt bỗng tỏa hương/Đời thực thành cõi mộng/Trần gian hóa thiên đường/Ta nâng chén thứ hai/Cho đất trời tinh khiết/Tâm ta bừng sáng ra/Biết thêm điều chưa biết/Mai sau đời dẫu tuyệt/Chắc gì hơn lúc này/Nào châm thêm chén nữa/Hai đứa mình cùng… bay…; Ta ngồi nhấp chén trà xuân/Rưng rưng da thịt thấy dần tỏa hương/Trần gian bỗng hóa thiên đường/Đời là thực đấy mà dường như mơ/Ta nâng chén với bạn thơ/Không gian xanh đợi nắng chờ vàng ong/Tâm ta bừng dậy niềm mong/Thêm điều chưa biết cho lòng sáng ra/Mai đời đẹp tựa ngàn hoa/Chắc gì hơn được như ta lúc này/Nào thêm chén nữa cho say/Nghiêng nghiêng hai đứa cùng bay giữa trời.

Trở lại với câu chuyện gây xôn xao gần đây, bài thơ Mùa thi đổ lửa là một trong ba bài thơ của Văn Giá được nhà thơ Nguyễn Việt Chiến giới thiệu trên trang thơ của Văn nghệ số 1 Bộ Mới. Bài thơ ấy có những câu lặp lại như một điệp khúc: Ở Quảng Trị.../Chỉ có... Có ý kiến cho rằng Văn Giá đã đạo ý ca từ của nhạc sĩ Trần Tiến trong bài Ngẫu hứng phố vì trong bài hát của Trần Tiến cũng có những ca từ mang tính điệp khúc như thế: Hà Nội cái gì cũng.../Chỉ có... Ta thấy sự giống nhau về mô-tip trong cách diễn đạt của Văn Giá so với ca từ bài hát của Trần Tiến đã ra đời trước đó khá lâu. Đó là cùng nói về một địa danh/ một không gian và dùng phép tương phản qua các cặp tính từ trái nghĩa. Nếu như Trần Tiến dùng các cặp rẻ/đắt, buồn/vui thì Văn Giá dùng các cặp: thiếu/thừa, héo/tươi, hiền/dữ và sau đó là một số cặp tương phản nữa: ít/ chi chít, cháy xém/ trắng ngời, trong héo ngoài héo/ trong tươi ngoài tươi. Ngoài ra, chữ “chỉ có” trong ca từ của Trần Tiến cũng được Văn Giá sử dụng trong những câu thơ của anh. Thế nhưng chừng ấy dữ kiện mà đi tới kết luận Văn Giá đạo của Trần Tiến thì e rằng quá khắt khe và chưa thỏa đáng. Đồng ý là bài thơ có sự ảnh hưởng cách diễn đạt, ảnh hưởng mô típ nhưng Văn Giá sau đó vẫn có cách phát triển tác phẩm riêng của mình. Nhìn rộng ra hơn, tư duy dùng tương phản, dùng trái nghĩa để làm nổi bật một vấn đề nào đó đã có trong dân gian từ rất lâu. Một trong những biểu hiện của lối tư duy này thể hiện qua các cặp quan hệ từ “tuy…nhưng”, “dù…nhưng”, “dù…vẫn”, “tuy…vẫn”.

Như vậy, công bằng mà nói, bài thơ của Văn Giá tuy có ảnh hưởng về mặt khởi ý và cách diễn đạt nhưng vẫn có thể coi là một tác phẩm độc lập. Sự ảnh hưởng ở bài thơ của Văn Giá chỉ mang tính cục bộ/ một phần chứ không phải là sự sao chép toàn bộ tác phẩm của Trần Tiến.

Ðỗ Anh Vũ

Nguồn: Văn nghệ số 31/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm