TIN TỨC

Ðạo thơ hay dụng điển?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-06 20:58:39
mail facebook google pos stwis
4445 lượt xem

Lâu nay, “đạo” văn “đạo” thơ vẫn là một câu chuyện dài bất tận không có hồi kết. Những câu hỏi luôn được đặt ra là: Thế nào là “đạo” (văn, thơ)? Ðâu là giới hạn của việc sử dụng sáng tạo những thành quả của người đi trước, ứng dụng có tiếp biến những giá trị đã có sẵn của văn hóa dân gian, của những mô thức ngôn ngữ phổ cập trong tác phẩm của mình để không bị coi là “đạo” văn thơ? Vì sao tác phẩm sáng tác dựa trên một cốt truyện cũ được coi là kiệt tác, trong khi một truyện ngắn phảng phất ý tưởng của một truyện ngắn đã từng đăng trước đấy tác giả vẫn bị coi là “cầm nhầm” đồ của người khác?...

Ðấy là những câu hỏi không dễ trả lời nhưng không thể không trả lời, vì một nền văn chương trong sạch, lành mạnh và khỏe khoắn.

Chuyện đạo thơ ở nước ta nói riêng, đạo tác phẩm nghệ thuật, công trình nghiên cứu nói chung, từ trước đến giờ cũng có nhiều. Khi toàn cầu đã là một thế giới phẳng thì có thể nói, việc đạo thơ đạo văn như cái kim giấu trong bọc trước sau cũng lộ. Tuy thế, mỗi vụ đạo thơ/hoặc bị coi là đạo thơ lại cũng có những đặc điểm riêng biệt gây ra nhiều tranh luận chưa dễ đi đến thống nhất.

1. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh biên soạn có mục từ “đạo thi”, nghĩa là “dùng trộm câu thơ của kẻ khác”. Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học) thì có mục từ “đạo văn”, được định nghĩa: “lấy, hoặc căn bản lấy sáng tác văn học của người khác làm của mình”. Từ định nghĩa này mà suy ra, thì cái hành động “đạo văn” hay “đạo thơ” phải là sự “ăn trộm” có tính chỉnh thể, nghĩa là lấy cả một tác phẩm hoặc gần như trọn vẹn tác phẩm thì mới rõ ra cái nghĩa đạo văn. Còn nếu chỉ lấy ý, lấy một câu hoặc một vài câu thì chúng ta cũng cần hết sức thận trọng khi xem xét và kết luận.

Sở dĩ có thể nói như vậy vì văn học trung đại của Việt Nam và Trung Hoa có đặc điểm rất coi trọng việc sử dụng điển tích điển cố, coi đó là một biểu hiện của sự uyên bác, sang trọng. Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du cũng dùng nhiều điển tích, điển cố có nguồn gốc Trung Hoa. Nói cách khác, toàn bộ những sự việc, câu chữ đã trở thành kinh điển, từng được dùng trong sử sách văn chương của thời trước, rồi lại được các tác giả ở thời kỳ sau vận dụng, đưa vào trong tác phẩm của mình, thì không thể gọi là đạo thơ/đạo văn. Chẳng hạn câu thơ trong Truyện Kiều: Trước sau nào thấy bóng người/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông; chính là được viết ra từ nguyên tác câu thơ của Thôi Hộ trong bài Đề tích sở kiến xứ: Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong (Dịch nghĩa: Mặt người không biết đã đi về nơi nào/ Chỉ có hoa đào là vẫn cười với gió đông như cũ). Hay như câu “Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều” cũng là cách vận dụng điển tích, có gốc từ câu thơ của Đỗ Mục trong bài Xích Bích hoài cổ: Đồng Tước thâm xuân tỏa nhị Kiều (Cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước khóa chặt hai nàng Kiều). Cho đến thời kỳ Thơ Mới (1932 - 1945), nhiều thi sĩ lãng mạn vẫn còn ưa lối vận dụng điển tích điển cố, nhất là từ các tác phẩm Đường thi. Hai câu kết trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận: “Lòng quê dợn dợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là sự dụng điển hai câu thơ của Thôi Hiệu trong kiệt tác Hoàng Hạc lâu: Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu (Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Thi sĩ Nguyễn Bính còn hơn một lần đưa nguyên văn những câu thơ cổ vào các bài thơ của mình: Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu (Viếng hồn trinh nữ), Thiên hạ “chi nghinh Nam Bắc điểu”/ Tình đời “diệp tống vãng lai phong” (Xuân tha hương).

Sau này, Nguyễn Bính còn có một bài lục bát tập Kiều nổi tiếng, mỗi câu thơ là một câu trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đó cũng có thể xem là một cách dụng điển thú vị và cực kỳ tài hoa.

2. Từ sau 1975, việc dùng điển tích điển cố trong văn chương ít hơn trước nhiều. Nhưng việc một tác giả đi sau mượn ý thơ hoặc một vài câu thơ trong một tác phẩm ra đời trước mình không phải là ít. Năm 1981, thi sĩ Bùi Chí Vinh đã mượn thi đề Tống biệt hành của Thâm Tâm để viết một bài thơ mới với nhan đề Phản Tống biệt hành, được giới học sinh, sinh viên một thời khá yêu thích: Đưa người ta cứ đưa sang sông/ Không sợ tiếng sóng ở trong lòng/ Thâm Tâm lên núi mà tống biệt/ Ta về biển mặn hóa dòng sông. Ngay như trong ca từ của ca khúc nổi tiếng Người Hà Nội, Nguyễn Đình Thi cũng dùng lại nguyên văn một câu trong bài Tiến quân ca của Văn Cao: “Đoàn quân Việt Nam đi” và sau đó mới là “Hà Nội say mê chen đón Cha về kín trời phơi phới vàng sao”. Như vậy, việc dùng một vài câu hoặc ý thơ khó lòng coi là đạo thơ. Điều này khác với việc toàn bộ chỉnh thể tác phẩm bị sao chép hoặc lấy gần như trọn vẹn ý tưởng trong các phần của tác phẩm. Bài thơ Thưởng trà đầu xuân cùng bạn của Trần Đăng Khoa, nguyên tác là một bài thơ 5 chữ với 12 câu, đã bị một tác giả tên là N.C.C ở Hội VHNT Bắc Ninh chuyển thể sang lục bát và đề tên của mình. Trong trường hợp thế này thì mới có thể gọi là đạo thơ. Xin chép lại ra đây cả nguyên tác và bản lục bát: Nhấp chén trà thứ nhất/Da thịt bỗng tỏa hương/Đời thực thành cõi mộng/Trần gian hóa thiên đường/Ta nâng chén thứ hai/Cho đất trời tinh khiết/Tâm ta bừng sáng ra/Biết thêm điều chưa biết/Mai sau đời dẫu tuyệt/Chắc gì hơn lúc này/Nào châm thêm chén nữa/Hai đứa mình cùng… bay…; Ta ngồi nhấp chén trà xuân/Rưng rưng da thịt thấy dần tỏa hương/Trần gian bỗng hóa thiên đường/Đời là thực đấy mà dường như mơ/Ta nâng chén với bạn thơ/Không gian xanh đợi nắng chờ vàng ong/Tâm ta bừng dậy niềm mong/Thêm điều chưa biết cho lòng sáng ra/Mai đời đẹp tựa ngàn hoa/Chắc gì hơn được như ta lúc này/Nào thêm chén nữa cho say/Nghiêng nghiêng hai đứa cùng bay giữa trời.

Trở lại với câu chuyện gây xôn xao gần đây, bài thơ Mùa thi đổ lửa là một trong ba bài thơ của Văn Giá được nhà thơ Nguyễn Việt Chiến giới thiệu trên trang thơ của Văn nghệ số 1 Bộ Mới. Bài thơ ấy có những câu lặp lại như một điệp khúc: Ở Quảng Trị.../Chỉ có... Có ý kiến cho rằng Văn Giá đã đạo ý ca từ của nhạc sĩ Trần Tiến trong bài Ngẫu hứng phố vì trong bài hát của Trần Tiến cũng có những ca từ mang tính điệp khúc như thế: Hà Nội cái gì cũng.../Chỉ có... Ta thấy sự giống nhau về mô-tip trong cách diễn đạt của Văn Giá so với ca từ bài hát của Trần Tiến đã ra đời trước đó khá lâu. Đó là cùng nói về một địa danh/ một không gian và dùng phép tương phản qua các cặp tính từ trái nghĩa. Nếu như Trần Tiến dùng các cặp rẻ/đắt, buồn/vui thì Văn Giá dùng các cặp: thiếu/thừa, héo/tươi, hiền/dữ và sau đó là một số cặp tương phản nữa: ít/ chi chít, cháy xém/ trắng ngời, trong héo ngoài héo/ trong tươi ngoài tươi. Ngoài ra, chữ “chỉ có” trong ca từ của Trần Tiến cũng được Văn Giá sử dụng trong những câu thơ của anh. Thế nhưng chừng ấy dữ kiện mà đi tới kết luận Văn Giá đạo của Trần Tiến thì e rằng quá khắt khe và chưa thỏa đáng. Đồng ý là bài thơ có sự ảnh hưởng cách diễn đạt, ảnh hưởng mô típ nhưng Văn Giá sau đó vẫn có cách phát triển tác phẩm riêng của mình. Nhìn rộng ra hơn, tư duy dùng tương phản, dùng trái nghĩa để làm nổi bật một vấn đề nào đó đã có trong dân gian từ rất lâu. Một trong những biểu hiện của lối tư duy này thể hiện qua các cặp quan hệ từ “tuy…nhưng”, “dù…nhưng”, “dù…vẫn”, “tuy…vẫn”.

Như vậy, công bằng mà nói, bài thơ của Văn Giá tuy có ảnh hưởng về mặt khởi ý và cách diễn đạt nhưng vẫn có thể coi là một tác phẩm độc lập. Sự ảnh hưởng ở bài thơ của Văn Giá chỉ mang tính cục bộ/ một phần chứ không phải là sự sao chép toàn bộ tác phẩm của Trần Tiến.

Ðỗ Anh Vũ

Nguồn: Văn nghệ số 31/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm