TIN TỨC

Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-12-14 00:00:36
mail facebook google pos stwis
10 lượt xem

THIÊN SƠN

Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.

 

Nhà thơ Nguyễn Bình Phương

 

Không hiểu sao nghĩ đến Nguyễn Bình Phương, tôi lại nghĩ về một đôi mắt nhìn xa vắng vào cõi lạ lùng nào. Đôi mắt có chút thắc thỏm, nhưng vượt thoát mọi bức tường phía trước. Ừ nhỉ, tôi biết đến Nguyễn Bình Phương từ 25 năm trước, khi anh mới bước vào tuổi 35, đang làm biên tập viên cho nhà xuất bản quân đội. Và chính anh đã biên tập cho tôi tập truyện ngắn đầu tay, tập truyện mà tôi coi như một kỷ niệm sâu sắc trên con đường viết văn của mình. Giờ nhớ lại những thời khắc đó cứ như ngày hôm qua. Thế mà tóc xanh trên đầu giờ đã vương màu khói. Có cảm giác thời gian như lá, xếp chồng lên nhau, xanh vàng lẫn lộn. Đời thực đấy mà cũng chập chờn ảo mộng. Suốt những năm tháng ấy, Nguyễn Bình Phương, bằng sự nỗ lực không ngừng đã tiếp tục dấn bước trên con đường gian khó và làm nên một sự nghiệp văn chương đáng ngưỡng mộ với nhiều tiểu thuyết và thơ.

Đường văn chương của anh là con đường độc đạo. Dường như phía trước không có dấu chân. Và phía sau cũng không có người nào theo được. Đấy là con đường khám phá, đi theo sự mách bảo của nội tâm, khai phá những miền u thẳm trong tâm tư con người và những bí ẩn của chính cuộc đời.

Nhưng lần này, tôi chỉ mới có thể nói về thơ của Nguyễn Bình Phương.

***

Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.

Hãy xem anh nhìn thế giới:

“Những đám mây không có bầu trời

Những ngọn nước rào rào chảy ngược

Những tiếng nói thì thào vô chủ

Trong những giờ không thuộc mùa nào

Những người bạn làm ta dằn vặt

Với bức ảnh ngày đông

Mang nụ cười mơ màng phương bắc”.

(Giao thừa)

Đấy là một thế giới phi lý, một thế giới không có trong sự thật. Thế giới phá vỡ mọi quy ước và trật tự truyền thống. Thơ Nguyễn Bình Phương ngay từ buổi đầu đã vượt thoát những ranh giới cổ điển để đi vào một con đường mới.

Những hình ảnh lạ lùng có rất nhiều trong thơ anh tạo thành một thế giới dị biệt, mà những hình thù, những màu sắc ấy cắt thẳng vào tâm tư người đọc như những vệt sắc nhọn làm nứt vỡ những cách cảm suy đã cũ:

“Máu đứt dây cương

Lồng lộn phi nước đại

Đến vùng rừng thâm u mê man”

Hoặc:

“Bóng ông già bị đóng vào nôi

Bóng người mẹ đóng giữa trời giông gió

Bóng hoa đóng lên tường

Những dãy phố bị đóng vào hoàng hôn viễn xứ”

(Trường ca: Khách của trần gian)

Đấy là thế giới một nửa hiện thực và nửa kia là ảo ảnh:

“Em mách rằng có con chim nâu trong bông hoa nâu

Khuya nào đó cũng mải mê hót

Hót vào giấc mơ của em.”

(Khuya nào)

Và đây nữa, là thế giới hoàn toàn mê ảo:

“Động tiên nghe đá già

Nghe ngàn đêm hoa thức

Có xác xơ như tóc

Tóc như cây mùa rơi…”

(Với người trong cổ tích)

“Người đàn ông lang thang bốn mươi năm điên

về gọi mẹ dưới mồ

Mẹ ơi ban mai nào sáng nhất?”

(Trường ca: Khách của trần gian)

Và ngược lại, có khi anh khắc họa cái hiện thực như bay ra từ giấc mơ:

“Con bướm cuối cùng nhẹ nhàng bay ra ngoài giấc mộng

Bằng đôi cánh hoa mơ”

(Tình yêu khuất mặt)

Không chỉ lẫn lộn hiện thực và mơ ảo, ở trường hợp khác, Nguyễn Bình Phương nhìn thấy cái vô hình như đang hiện hữu trong thế giới hữu hình, cái đã mất mà như còn mãi:

“Bóng những bông hoa bị ngắt

Nửa đêm về đậu trên cuống run run

Sau lưng nở nụ cười lơ đãng

Vầng trăng trên nước tọa im lìm.”

(Hình cũ)

Cái thế giới nghệ thuật mà Nguyễn Bình Phương bày ra trước mắt chúng ta là một thế giới vô thủy, vô chung, xáo trộn không gian và thời gian. Không ai biết đến điểm đầu và điểm cuối của nó. Trong thế giới ấy, ta gặp sự hoang lạnh, tàn rữa, u uẩn.

 

Tuyển thơ “Xa xăm gõ cửa” của Nguyễn Bình Phương

 

Nhưng, Nguyễn Bình Phương không phải là người thoát ly hoàn toàn hiện thực. Anh chỉ mang đến một cách nhìn khác, một cách cảm nghĩ khác về hiện thực. Làm sao mà thoát ly hoàn toàn hiện thực được khi người thơ bời bời tâm trạng. Và làm thơ, thực ra cũng chính là một cách để giãi bày những tâm tư sâu kín nhất của lòng mình, những nghiệm suy trước cuộc đời biết bao nghịch lý và giằng xé. Trong cái thế giới thơ tưởng như xa lạ mà anh đã dựng lên, khi chú ý đến những sắc màu, những mối quan hệ chằng chịt của nó, người đọc sẽ thấy đó là ánh phản của thế giới nhân sinh với biết bao thăng trầm, khổ đau, nuối tiếc… được thể hiện trong một hình thức khác với thi ảnh độc đáo và lối liên tưởng mới lạ.

Ta gặp hình ảnh về một tình yêu đẹp đẽ mà tuyệt vọng:

“Em cúi xuống giấc mơ yên ả

Hôn lên mùa thu không còn tôi”

(Em và Hoa)

 “Hôn anh em làm anh mòn mỏi

Ta sẽ chết trong nhụy hoa những cánh hoa khép lại.”

(Vườn khuya)

 Ta gặp những ám ảnh về sự khuyết hao tàn lụi:

“Lạnh phả về từ xa xửa xa xưa

Thủa trong vắt tan vào mơ mộng

Biết mãi còn níu giữ nữa không?”

(Khúc ru)

Và đặc biệt, ta gặp hình tượng nhân vật trữ tình (như một hiện thân của chính nhà thơ) được thể hiện xuyên suốt trong nhiều bài thơ.

Có lúc phảng phất một niềm nuối tiếc về năm tháng đã qua:

“Thời gian ngã

máu tuôn

Tuổi xanh không thể dậy”

(Bài thơ cũ)

Nhưng sau đó lại là sự khước từ quá vãng, là một sự thúc bách vượt qua cái tôi của ngày hôm qua:

“Trong bóng râm lạnh lùng vang lời nhắc:

Ta lớn lên bởi kiếm tìm

Giờ kiếm tìm đã cũ”

(Bài thơ cũ)

Và cuối cùng là một sự thoát thai khỏi khuôn mặt cũ, những ràng buộc cũ và nhân vật trữ tình hiện ra như một bản thể độc đáo, với ý thức về nỗi buồn, sự tự do tuyết đối:

“Tôi là một đỉnh núi

Một nỗi buồn gieo neo bên ký ức phai tàn”

“Tôi là con đường chông gai chưa ai đi”

(Tự sáng)

Trong số các nhà thơ đương đại, Nguyễn Bình Phương là một hiện tượng hết sức độc đáo. Các thi phẩm của anh đậm đặc yếu tố siêu thực. Có thể nói anh là người đã dấn thân mãnh liệt trên con đường đổi mới thơ mình theo nghĩa vượt thoát khỏi sự kiềm tỏa của lý trí, sử dụng những hình ảnh kỳ lạ đầy huyễn hoặc, xác lập một logic nghệ thuật khác – trong đó mọi giới hạn về không gian và thời gian thông thường bị phá vỡ. Thay vào đó là sự chồng lấn giữa ý thức và vô thức, giữa thực tại và quá vãng, giữa hữu hình và vô hình…

Nguyễn Bình Phương xuất bản tập thơ đầu tiên Lam Chướng (1992) khi mới 27 tuổi. Và ngay ở tập thơ này đã có những vượt thoát khỏi những khuôn thức cũ và xuất hiện những câu thơ ấn tượng:

“Nhuốm gót theo ôi đầm sương là sương

Mỗi vòm lá bạt ngàn con mắt khóc.”

(Cái bóng)

Và chỉ mấy năm sau đó, với trường ca Khách của trần gian năm 1996 Nguyễn Bình Phương đã bộc lộ một cái nhìn bung phá mãnh liệt trước những giới hạn cũ và định hình một bản lĩnh sáng tạo. Nhiều câu thơ, ý thơ trong trường ca này đến nay vẫn còn làm cho người đọc ngỡ ngàng, thậm chí kinh ngạc bởi sự mới lạ ở cách nhìn và nghệ thuật ngôn từ kỳ lạ. Cách viết trường ca của Nguyễn Bình Phương không phải để kể một câu chuyện, không giàn dựng một không gian như điểm tựa cho nhân vật hoạt động và bám theo dòng thời gian biên niên đơn giản. Không, không phải vậy. Trường ca là nơi anh trình bày những chiều kích suy tưởng và tưởng tượng. Những chiều kích ấy cứ mở ra vô biên, đến mức dường như thiếu kiểm soát và làm hiện ra một thế giới đủ sắc màu lộn xộn, kỳ dị và cả những cái đẹp se thắt, ảo diệu. Đấy là một tổng phổ của những liên tưởng, cảm suy lạ lẫm về thế giới, về sự sống và về con người.

 

Nhà phê bình Thiên Sơn

 

Tại thời điểm những năm đầu đổi mới, khi mà những trào lưu cách tân thơ vừa mới nhú lên, khi những lý thuyết trường phái hiện đại phương Tây chưa thực sự được phổ biến đầy đủ và cởi mở trong sự tiếp cận ở Việt Nam. Tôi nghĩ Nguyễn Bình Phương không phải là người chủ trương đặt mình vào một trường phái nào. Và có lần anh đã xác nhận với tôi về điều đó. Vậy, những yếu tố siêu thực đậm đặc và thậm chí cả những dấu vết của chủ nghĩa tượng trưng và hậu hiện đại trong thơ anh có lẽ có nguồn gốc nội tại trong cảm quan của nhà thơ, hơn là sản phẩm của một sự tiếp biến văn hóa.

Trong những tập thơ tiếp theo: Xa thân, Từ chết sang trời biếc, Buổi câu hờ hững… Nguyễn Bình phương vẫn giữ được nhịp độ và sự bứt phá của cảm xúc, lối liên tưởng phi thường của anh. Nhưng điểm khác biệt so với trước là người thơ đã ngày càng trầm tĩnh và nghiệm suy hơn, mang màu thế sự nhiều hơn:

“Đứng một mình giữa tĩnh mịch bao la

Thời gian đỗ kềnh trên đầu gối

Qua kẽ tay thế sự nhờn nhợt rơi

Những câu ca lạnh những ngọn triều thần

Mất

Chỉ còn lại gương và lau lách.”

(Tượng đá cầm gươm)

“Cuối cùng

cuộc chuyện trò cũng biến thành câu hỏi

tại sao người nọ dẫn người kia lạc lối

tại sao một linh hồn héo hon

say sưa giảng cho một thân hình héo hon về mốt”

(Ở nơi không có cánh)

Suốt cả hành trình của mình, Nguyễn Bình Phương đã kiên trì một lối thơ riêng. Dù đã có nhiều bài viết về thơ ông, nhưng tôi nghĩ, hầu như mọi người vẫn chưa dễ nắm bắt được tường tận. Thơ Nguyễn Bình Phương thách thức chúng ta. Đến với thơ anh, dường như cần những ổ khóa để mở ra những cánh cửa bí mật mà hầu hết chúng ta lại không nắm được những bí mật ấy. Có lẽ đó là một cách để Nguyễn Bình Phương giữ cho thơ ca vẫn còn là một lâu đài huyền bí mà chỉ những ai vô cùng yêu mến thi ca, dõi theo những chuyển động vi diệu của nó mới có thể đặt chân đến.

Lịch sử văn học Việt Nam đang chuyển động sang một hướng mới. Chúng ta đang cố gắng vượt thoát khỏi lối tư duy mòn cũ, giản đơn để bước vào một lộ trình mới hiện đại trong sự hội nhập cùng nhân loại. Tư duy nghệ thuật của thế hệ mới phải khác. Những con đường mới cần được mở ra để các thế hệ cùng kiến tạo một nền văn chương đích thực mang những giá trị thẩm mĩ độc đáo và nhân bản.

Thơ Nguyễn Bình Phương chứng tỏ một sự dịch chuyển những quan niệm mỹ học mãnh liệt trong sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm. Nó không trình bày một thông điệp đơn giản. Nó thúc bách người đọc phải nghiệm suy về sự tồn tại. Nó mang đến một cảm quan mới về thế giới và con người. Nó bắt người ta phải cảm nhận thơ ca bằng tổng thể các giác quan và tập trung mọi năng lực của chính mình trong sự nhận diện ra vẻ đẹp của sự tồn tại và nhào nặn lại tâm tư, cảm thức của mình. Nó khơi mở khả năng tưởng tượng không giới hạn của người đọc.

Nguồn: VanVn

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm