- Lý luận - Phê bình
- Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
LÊ XUÂN
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.

Nhà văn Nguyễn Kim Thanh
Chị cho biết đôi khi cảm xúc đến chị phải ghi vội lại bằng thơ kẻo nó trôi mất. Còn viết truyện thì đã có cốt truyện, bố cục cứ thế mà viết theo từng ngày, từng giờ. Một ý thơ, một câu thơ có thể diễn tả thành hai ba trang văn xuôi. Và khi cảm xúc không tới thì câu thơ viết ra sẽ vô hồn, lúc đó chỉ nên viết văn xuôi thôi, tha hồ mà tung tẩy ngòi bút qua hư cấu.
Thơ Nguyễn Kim Thanh viết về nhiều đề tài quen thuộc như: quê hương, gia đình, tình yêu, tình bạn, tình thầy trò với bao kỷ niệm đẹp của một thời tuổi trẻ. Nhưng theo tôi chị thành công hơn cả là ở mảng thơ tình. Đó là những cung đàn vang ngân của tâm trạng vui buồn, tự hào, sung sướng, ngậm ngùi, luyến nhớ gắn với những bức tranh về thiên nhiên khi mơ màng, lung linh ẩn hiện của ruộng đồng, trăng sao, sông biển vùng sông nước miệt vườn. Thơ chị đậm đà chất quê, thắm hồn ca dao, dân ca, tục ngữ và vang vọng âm hưởng của đờn ca tài tử, cải lương Nam Bộ.
Thơ của Nguyễn Kim Thanh rất gần gũi cuộc sống, giản dị, mộc mạc với cái tôi trữ tình rất nữ tính. Nhân vật “em” luôn ẩn hiện dưới nhiều góc nhìn qua cảm xúc thơ. Đây là cảnh suy tư trước trăng “đồng bằng và biển”:
Xa đồng bằng em về với biển
Ngơ ngác nhìn con sóng bạc đầu xa
Trăng đồng bằng khác gì trăng ở biển
Có đầy vơi hay chỉ tỏ mờ.
Để rồi lòng yêu “biển hóa thành thơ”, và “gió biển tanh nồng mùi cá/ Bỗng trở thành mùi dung dị yêu thương”. Từ cái mùi tanh nồng của cá, vị mặn mòi của biển ta cảm nhận được bằng mắt, bằng tai, bằng vị giác, xúc giác đã được nâng lên thành mùi của trái tim “dung dị yêu thương”. Sự chuyển đổi cảm giác, cảm nhận này làm tứ thơ có chiều sâu trí tuệ.
Một lần về Hà Tiên thăm Chiêu Anh Các nghe mưa rơi trên Thạch Động, gió rú Châu Nham, chị liên tưởng về tình yêu: “Chiều Hà Tiên thương nhớ/ Em tôi lỡ xuân thì/ Mượn chuông chùa gõ nhịp/ Đưa trăng về bến mơ”. Bài thơ đượm chất Thiền trong sáng giữa đời và đạo.
Chị luôn bị ám ảnh bởi một nhân vật “tình quân” nào đó trong hoài niệm khi mỗi lần nhìn thấy sông, thấy biển, thấy trăng rồi nghĩ tới cuộc chia ly của một mối tình trong chiến tranh, trong xa cách: “Người ấy ra đi vì việc nghĩa/ Em tìm trong nước dáng người xưa” để rồi “Làm sao xa được trăng ngày cũ/ Tình quân năm ấy mãi ở sông”. Hoặc khi đứng trước biển chị luôn muốn gửi vào con sóng bao lời nhắn nhủ yêu thương: “Biển gửi em một nỗi niềm thương nhớ/ Biển và em cách trở một nẻo đường”. Khi về thăm Vũng Rô – nơi những chiến sĩ của “đoàn tàu không số” đã hy sinh, chị như nhìn thấy cha anh đã hòa vào biển xanh trong tâm tưởng: “Cha và anh từ biển hóa thành sắc cầu vồng” và “Họ đi rồi hóa thân trong dáng hình đất nước” để cho “Những đóa hoa lửa vụt sáng bay lên”. Ở bài “Tự sự” trước biển chị lại tự thú: “Chiều bên biển em thấy mình thơ dại/ Như ngày xưa ôm ấp nụ hôn đầu”. Một cái “thơ dại” và “nụ hôn đầu” thật nữ tính rất đáng yêu. Đúng như nhà thơ Thế Lữ đã nói “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Nghìn năm hồ dễ đã ai quên”.
Chị cố gắng đi tìm một định nghĩa về tình yêu, nhưng không bao giờ có được một đáp số chuẩn. Tình yêu là cánh phượng đỏ thắm như lòng anh, là màu xanh như áo em, là gió, là mây, là sóng vỗ, là khơi xa với biển rộng sông dài. Nhưng rồi tất cả sẽ tan đi chỉ còn “Anh có một tình yêu/ Âm thầm như sóng vỗ/ Anh có một tình yêu/ Chỉ riêng dành em đó”. Đắm say tình yêu như Xuân Diệu cũng đành bất lực khi định nghĩa về tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
Những bài thơ tình của Nguyễn Kim Thanh luôn gắn với thương nhớ, đợi chờ trong xa cách, luôn gắn với những kỷ niệm đẹp của một “thuở ban đầu” bên bến sông, nơi biển vắng, và nhất là trong những đêm trăng thật lãng mạn có những “lời yêu vụng dại” nồng cháy. Đó là một tình yêu thủy chung, có sum họp và chia ly, có vui buồn xen hờn giận thoáng qua, và cuối cùng “Chia tay anh em về lại riêng mình”. Dù hỏi gió, hỏi nắng, hỏi thinh không, hỏi từng giọt đắng anh ở đâu, và cuối cùng nhân vật trữ tình khẳng định với lòng mình: “Ngày mai đó trong cuộc đời thật giả/ Anh nguyện làm dấu chấm của riêng em”. Một hy vọng, một hứa hẹn thật đẹp: “ Ta trở về phủ kín lấy đời nhau” (Tìm tôi) để xua đi mọi cô độc, xua đi mối tình ta xưa cũ để mãi mãi “mộng hoa vàng phủ kín lấy đời nhau”. Quả là một nỗi buồn biết đập cánh bay đi.
Ở mảng thơ thế sự, đời thường Nguyễn Kim Thanh cũng có nhiều thành công. Chị day dứt trăn trở khi thấy cảnh thay da đổi thịt ở nông thôn “hóa thành thị” và cơn sốt đất lên cao, mọi thứ đảo lộn, đồng tiền lên ngôi, con người lý hương tìm nguồn sống: “Rào giậu bủa giăng ruộng đồng bến bãi/ Sốt đất con người ấp ủ mộng ly hương” (Sốt đất).

Bìa tập thơ Lặng nghe Sông hát
Chị chia sớt nỗi buồn của một bà mẹ từ miền Bắc vào Nam tìm mộ con với nỗi đau sau chiến tranh khôn nguôi nhưng không tắt niềm hy vọng, không một lời oán trách, mẹ nói với con trong tâm tưởng lặng im làm ta rớt nước mắt: “Mẹ về nhé nay lưng còng tóc bạc/ Nơi suối ngàn chờ mẹ với con yêu/ Con mĩm cười trong ráng chiều nhạt nắng/ Tạm biệt con bà mẹ Bắc vào Nam” (Thăm con). Dù cuộc đời có phù du tới đâu, dù ngoại, dù cậu và bao người thân sẽ không về nữa sau chiến tranh nhưng “Những nén nhang thơm không còn trong bí mật/ Bảng lãng trời chiều giọt nước mắt thủy tinh”. Niềm hy vọng không tắt! Và mùa xuân lại về với trăm hoa đua nở trên bến Ninh Kiều hay bến Tô Châu, chợ nổi Cái Răng, Ngã Bảy, Phong Điền vẫn tập nập xuồng ghe khi tết đến xuân về. Câu ca điệu lý cùng với tiếng hòa tấu của đàn kìm, đàn tranh trên bến sông trong xóm giềng vẫn như một bài ca về cuộc sống tươi đẹp ở ngày mai. Ngày xuân về gợi nhiều thương nhớ mẹ cha và những người đã khuất, nhưng niềm thương nhớ khôn nguôi của chị là nhớ về Bác Hồ kính yêu khi từ biệt trường Dục Thanh ra đi tìm đường cứu nước. Bên bến sông Cà Ty, chị hồi tưởng:
Người thầy mang trái tim đỏ rực
Ngang qua cầu thao thức mệnh non sông
Và “Sân trường Dục Thanh hoa sen đang nở rộ/ Nhớ thương Người năm ấy đã đi xa” (Bên sông Cà Ty).
Nguồn sữa nuôi dưỡng thơ chị là tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, là nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, là sự hiến dâng tự nguyện cho hạnh phúc cộng đồng, là những rung động đầu đời rất đẹp về tình yêu nam nữ hay nỗi niềm luyến tiếc về những gì một đi không trở lại. Từ những rung động vi mô đến những rung động vĩ mô của con tim đều ẩn chứa trong thơ chị. Tất cả đều rung lên, ngân vang từ sâu thẳm tâm hồn để bật thành những vần thơ khi trần trụi như luống cày, hạt lúa, củ khoai, khi trong trẻo mượt mà như ca dao, như làn sương mỏng trước bình minh. Chất thực và ảo hoà quyện bay bổng tạo cho thơ chị vừa dân dã, mộc mạc vừa hiện thực và lãng mạn. Vì thế, thơ chị luôn hướng về vẻ đẹp nhân văn thấm đẫm tình người với những nỗi đau, niềm vui . Những góc khuất của con tim với bao kỷ niệm vui buồn để đưa người đọc trở về tuổi thơ với quê hương nơi tiếng đờn hòa tấu, lời vọng cổ xuống “xề” ở miệt vườn Nam Bộ. Nó hiện lên trên mỗi trang thơ của chị đáng yêu biết dường nào.
Với một giọng thơ ngọt ngào chứa nhiều trăn trở và hoài niệm “Giọt nước mắt thủy tinh” cho người đọc đến với nhiều cảnh sắc và giai điệu miền Tây Nam bộ. Chỉ với 30 bài thơ viết ở nhiểu thể loại như: thơ 7 chữ, 5 chữ, 4 chữ, lục bát… và cách vắt dòng, hiệp vận ở mỗi khổ luôn tạo nên tính nhạc, lắng vào hồn người đọc, nhưng chị tâm đắc hơn cả vẫn là thể thơ 7 chữ - một thể thơ mà phong trào Thơ Mới (1932-1945) các nhà thơ thường dùng. Hy vọng hồn thơ Nguyễn Kim Thanh sẽ bay xa hơn nữa ở những tập thơ sau./.
L.X