TIN TỨC

‘Bến xuân’: Ai vẽ tình buồn đẹp như Văn Cao

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-02-28 00:24:55
mail facebook google pos stwis
830 lượt xem

Nói về Văn Cao, dường như bao nhiêu mỹ từ cũng không đủ, nhưng đôi khi một từ cũng thành thừa; bởi từ những tác phẩm của ông đã toát lên đủ cả tài năng và tâm hồn.

Nhạc sĩ Văn Cao

Nếu chỉ với sáng tác đầu tay Buồn tàn thu năm 16 tuổi, Văn Cao đã vẽ nên cả một mùa thu Bắc Việt với những rung cảm tuyệt mỹ, trở thành đỉnh cao của âm nhạc lãng mạn, đến mức tưởng như mùa thu trở thành dấu ấn và số mệnh của người nhạc sĩ tài hoa thì chỉ ba năm sau đó, ông tiếp tục có một Bến xuân cũng lộng lẫy không kém. Với một không gian mùa xuân nhuốm màu thần tiên, ẩn chứa trong đó là một khối tình thăm thẳm, ca khúc trở thành tuyệt phẩm kinh điển của tân nhạc, như nhạc sĩ Phạm Duy nhận định: “là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam”.

Chuyện tình nàng thiếu nữ tên “Oanh”

Suốt cuộc đời, Văn Cao sống khiêm nhường, khép kín. Đặc biệt trong chuyện tình cảm, ông chung thủy và chừng mực, hết lòng với vợ con. Vì thế, trong các tác phẩm của Văn Cao, những câu chuyện về tình yêu nam nữ cá nhân không nhiều mà phần lớn là những buồn vui chung về nhân tình thế thái, thể hiện qua những cảm nhận và miêu tả vô cùng tinh tế về cảnh vật và con người.


“Bến xuân” là bản nhạc hiếm hoi Văn Cao viết về một mối tình có thực trong cuộc đời mình.

Bến xuân là trường hợp đặc biệt mà Văn Cao viết về một mối tình có thực trong cuộc đời mình. Mối tình không thành nhưng khiến nhạc sĩ có những rung cảm mạnh mẽ. Đó là câu chuyện về giai nhân Hoàng Oanh, người Hải Phòng. Những năm 1940, cô tiểu thư Hoàng Oanh con nhà giàu, xinh đẹp nức tiếng, có giọng hát “oanh vàng” khiến biết bao chàng trai ôm mộng tương tư.

Trong đó, nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm nhạc sĩ hàng đầu của thành phố cảng thời đó: Hoàng Quý, Kim Tiêu và Văn Cao. Trớ trêu thay, cả ba người đều là những tri kỷ thân thiết trong nghệ thuật. Vốn tính rụt rè, lại có phần mặc cảm về gia cảnh, Văn Cao đành lùi về phía sau, thậm chí giúp hai người bạn viết thơ, viết nhạc để lấy lòng giai nhân.
Chính Văn Cao từng thú nhận: “Tôi là người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi không giỏi về cách giao lưu với những người đàn bà. Đối với những người đẹp, tôi lại càng bối rối. Tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ”.

Dù Văn Cao chưa một lần ngỏ lời, có lẽ Hoàng Oanh cũng cảm nhận được đôi phần tâm tư của ông. Trong thời gian Văn Cao sống tại Bến Ngự, Hải Phòng (còn gọi là Bến Đò Rừng, điểm giao nhau giữa phố Hoàng Văn Thụ và Bưu điện Hải Phòng, nơi nhạc sĩ Văn Cao sinh ra và lớn lên), có một dịp Hoàng Oanh ghé thăm nhạc sĩ, nàng còn ngồi làm mẫu cho Văn Cao vẽ chân dung và ngồi quạt cho chàng viết nhạc.

Những rung cảm mạnh mẽ từ cuộc gặp gỡ ấy đã chắp cánh cho Văn Cao viết nên tuyệt phẩm Bến xuân. Dù sau này, mối tình ấy mãi mãi đi vào quá khứ, khi Hoàng Oanh quyết định lên xe hoa với nhạc sĩ Hoàng Quý (sau này, bà cũng là nhân vật chính để Hoàng Quý viết nên ca khúc nổi tiếng Cô láng giềng), nhưng với Văn Cao, đó là một kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ. Thế nên dù là tình yêu vô vọng, Bến xuân mang đầy niềm hạnh phúc dâng tràn, một niềm vui trong sáng như mùa xuân ùa về trong tâm tưởng của người nghệ sĩ. Nhạc sĩ còn khéo léo lồng ghép câu nhạc: “Ai tha hương nghe ríu rít Oanh ca” như ngầm gửi gắm tình cảm cho người con gái tên Oanh.

Sau này, trong phim ca nhạc Văn Cao, giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng (năm 1995), Văn Cao có nói lại về Bến xuân và cuộc gặp gỡ ngày ấy: “Ngày xưa, tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Thế nhưng, người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi, vì thế mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”.

Bến xuân ra đời năm 1942. Khi xuất bản lần đầu, trong bản nhạc có đề tên nhạc sĩ Phạm Duy là đồng tác giả phần lời. Việc này cũng gây ra nhiều tranh luận trong giới nghệ sĩ và các nhà nghiên cứu. Vì theo hồi ký của Phạm Duy, cũng như theo lời nhạc sĩ Văn Thao (con trai nhạc sĩ Văn Cao), nhạc sĩ Phạm Duy xuống Hải Phòng và hội ngộ Văn Cao lần đầu quãng năm 1943, 1944 trong khi Bến xuân được viết năm 1942, nên việc Phạm Duy tham gia viết lời cho Bến xuân là phi lý. Tuy nhiên, điều này chưa một lần được cả hai nhạc sĩ lên tiếng vì có lẽ Văn Cao hiểu rõ nhất sự hiện diện của Phạm Duy trong những sáng tác của mình. Với Phạm Duy, mọi hư danh, nhất là với người bạn ông coi như tri kỷ, như tiền bối, dường như đều vô nghĩa.

Năm 1944, khi Văn Cao tham gia Việt Minh, dựa trên phần nhạc cũ, ông đã viết lại phần lời mới cho ca khúc với tên gọi Đàn chim Việt. Ca khúc vượt ra khỏi câu chuyện tình cảm đôi lứa cá nhân mà mang khát vọng hòa hợp dân tộc. Đàn Chim Việt cũng lan tỏa mạnh mẽ và có sức sống riêng không thua kém Bến xuân.

Bản nhạc tình lãng mạn nhất

Được coi như thế hệ thứ hai của tân nhạc Việt Nam, hồn nghệ thuật của Văn Cao là sự hội tụ và phát tiết đến đỉnh điểm của sự lãng mạn và tinh tế, ảnh hưởng từ văn hóa Pháp và của thế hệ nhạc sĩ đi trước như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Lưu Hữu Phước…

Ở Văn Cao có sự kết hợp tài tình của nhạc ngữ phương Tây giai đoạn đầu với âm hưởng và màu sắc cổ nhạc dân tộc. Trong các giai đoạn đầu của tân nhạc, với những bản tình ca mùi mẫn, dù vẫn sử dụng những nốt luyến láy và kỹ thuật nhảy nốt mang âm hưởng của ca trù hay âm nhạc ngũ cung, Văn Cao cũng khéo léo thoát ra khỏi hình thái cũ của cổ nhạc, vận dụng sáng tạo và duyên dáng các cấu trúc ca khúc của phương Tây như hợp âm vòng, cấu trúc ba đoạn… tạo nên những tác phẩm sang trọng và diễm lệ bất chấp mọi thời đại, khiến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng phải nghiêng mình kính phục: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn Cao là âm nhạc của thần tiên bay bổng…”.

Tính lãng mạn trong âm nhạc của Văn Cao như khởi thủy của những bản nhạc chữa lành tâm hồn, với giai điệu uyển chuyển du dương. Toàn tài ở cả ba lĩnh vực âm nhạc – hội họa – thơ ca, các ca khúc của Văn Cao luôn hiện lên như một bức tranh tuyệt mỹ. Đó là cái đẹp vượt lên trên cả khổ đau của nhân gian, dù nói về nỗi buồn cũng không chút oán hận hay tuyệt vọng.

Như Phạm Duy từng nói: “Nhạc sầu của nhiều tác giả khác, nhiều khi chỉ là sầu giả tạo; còn tình ca của Văn Cao, nếu là tình buồn cũng không bao giờ bi lụy”. Điều này không chỉ thể hiện ở Bến xuân mà xuyên suốt con đường âm nhạc của Văn Cao. Ông luôn dành cho tác phẩm của mình cái nhìn bao dung và say sưa với cuộc đời, dù đó là một cuộc đời không bằng phẳng. Đó là tầm vóc của một nghệ sĩ lớn, một nhân cách lương thiện mà nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này phải học hỏi và ngưỡng mộ.

Trong cuốn Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu, Phạm Duy viết: “Nói tới nhạc tình, Văn Cao là nhất!” và “nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm tân nhạc thì những bài Suối mơ, Bến xuân… là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa”.

Dù sau này Văn Cao thành công lẫy lừng ở nhiều thể loại nhạc khác nhau như trường ca hay nhạc cách mạng… nhưng với nhạc tình lãng mạn, Văn Cao vẫn là dấu son chói lọi, giúp định hình một giai đoạn sơ khai của tân nhạc Việt Nam đạt đến cực điểm của trữ tình duy mỹ. Văn Cao như một cây đại thụ khiêm nhường nhưng tỏa bóng mát sâu rộng, đầy ảnh hưởng đến nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này.

 Lan Anh/PNO

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm