TIN TỨC

‘Bến xuân’: Ai vẽ tình buồn đẹp như Văn Cao

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-02-28 00:23:17
mail facebook google pos stwis
1594 lượt xem

Nói về Văn Cao, dường như bao nhiêu mỹ từ cũng không đủ, nhưng đôi khi một từ cũng thành thừa; bởi từ những tác phẩm của ông đã toát lên đủ cả tài năng và tâm hồn.

Nhạc sĩ Văn Cao

Nếu chỉ với sáng tác đầu tay Buồn tàn thu năm 16 tuổi, Văn Cao đã vẽ nên cả một mùa thu Bắc Việt với những rung cảm tuyệt mỹ, trở thành đỉnh cao của âm nhạc lãng mạn, đến mức tưởng như mùa thu trở thành dấu ấn và số mệnh của người nhạc sĩ tài hoa thì chỉ ba năm sau đó, ông tiếp tục có một Bến xuân cũng lộng lẫy không kém. Với một không gian mùa xuân nhuốm màu thần tiên, ẩn chứa trong đó là một khối tình thăm thẳm, ca khúc trở thành tuyệt phẩm kinh điển của tân nhạc, như nhạc sĩ Phạm Duy nhận định: “là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam”.

Chuyện tình nàng thiếu nữ tên “Oanh”

Suốt cuộc đời, Văn Cao sống khiêm nhường, khép kín. Đặc biệt trong chuyện tình cảm, ông chung thủy và chừng mực, hết lòng với vợ con. Vì thế, trong các tác phẩm của Văn Cao, những câu chuyện về tình yêu nam nữ cá nhân không nhiều mà phần lớn là những buồn vui chung về nhân tình thế thái, thể hiện qua những cảm nhận và miêu tả vô cùng tinh tế về cảnh vật và con người.


“Bến xuân” là bản nhạc hiếm hoi Văn Cao viết về một mối tình có thực trong cuộc đời mình.

Bến xuân là trường hợp đặc biệt mà Văn Cao viết về một mối tình có thực trong cuộc đời mình. Mối tình không thành nhưng khiến nhạc sĩ có những rung cảm mạnh mẽ. Đó là câu chuyện về giai nhân Hoàng Oanh, người Hải Phòng. Những năm 1940, cô tiểu thư Hoàng Oanh con nhà giàu, xinh đẹp nức tiếng, có giọng hát “oanh vàng” khiến biết bao chàng trai ôm mộng tương tư.

Trong đó, nổi tiếng nhất phải kể đến nhóm nhạc sĩ hàng đầu của thành phố cảng thời đó: Hoàng Quý, Kim Tiêu và Văn Cao. Trớ trêu thay, cả ba người đều là những tri kỷ thân thiết trong nghệ thuật. Vốn tính rụt rè, lại có phần mặc cảm về gia cảnh, Văn Cao đành lùi về phía sau, thậm chí giúp hai người bạn viết thơ, viết nhạc để lấy lòng giai nhân.
Chính Văn Cao từng thú nhận: “Tôi là người luôn luôn thất bại về tình yêu, cái thất bại này là bởi vì tôi không giỏi về cách giao lưu với những người đàn bà. Đối với những người đẹp, tôi lại càng bối rối. Tôi không bao giờ nói được với người ta, thì tôi bèn nói trong thơ”.

Dù Văn Cao chưa một lần ngỏ lời, có lẽ Hoàng Oanh cũng cảm nhận được đôi phần tâm tư của ông. Trong thời gian Văn Cao sống tại Bến Ngự, Hải Phòng (còn gọi là Bến Đò Rừng, điểm giao nhau giữa phố Hoàng Văn Thụ và Bưu điện Hải Phòng, nơi nhạc sĩ Văn Cao sinh ra và lớn lên), có một dịp Hoàng Oanh ghé thăm nhạc sĩ, nàng còn ngồi làm mẫu cho Văn Cao vẽ chân dung và ngồi quạt cho chàng viết nhạc.

Những rung cảm mạnh mẽ từ cuộc gặp gỡ ấy đã chắp cánh cho Văn Cao viết nên tuyệt phẩm Bến xuân. Dù sau này, mối tình ấy mãi mãi đi vào quá khứ, khi Hoàng Oanh quyết định lên xe hoa với nhạc sĩ Hoàng Quý (sau này, bà cũng là nhân vật chính để Hoàng Quý viết nên ca khúc nổi tiếng Cô láng giềng), nhưng với Văn Cao, đó là một kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ. Thế nên dù là tình yêu vô vọng, Bến xuân mang đầy niềm hạnh phúc dâng tràn, một niềm vui trong sáng như mùa xuân ùa về trong tâm tưởng của người nghệ sĩ. Nhạc sĩ còn khéo léo lồng ghép câu nhạc: “Ai tha hương nghe ríu rít Oanh ca” như ngầm gửi gắm tình cảm cho người con gái tên Oanh.

Sau này, trong phim ca nhạc Văn Cao, giấc mơ một đời người của đạo diễn Đinh Anh Dũng (năm 1995), Văn Cao có nói lại về Bến xuân và cuộc gặp gỡ ngày ấy: “Ngày xưa, tôi có thầm yêu một người con gái mà không dám nói ra. Thế nhưng, người ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi, vì thế mới có câu hát “Em đến tôi một lần” và có bài hát này”.

Bến xuân ra đời năm 1942. Khi xuất bản lần đầu, trong bản nhạc có đề tên nhạc sĩ Phạm Duy là đồng tác giả phần lời. Việc này cũng gây ra nhiều tranh luận trong giới nghệ sĩ và các nhà nghiên cứu. Vì theo hồi ký của Phạm Duy, cũng như theo lời nhạc sĩ Văn Thao (con trai nhạc sĩ Văn Cao), nhạc sĩ Phạm Duy xuống Hải Phòng và hội ngộ Văn Cao lần đầu quãng năm 1943, 1944 trong khi Bến xuân được viết năm 1942, nên việc Phạm Duy tham gia viết lời cho Bến xuân là phi lý. Tuy nhiên, điều này chưa một lần được cả hai nhạc sĩ lên tiếng vì có lẽ Văn Cao hiểu rõ nhất sự hiện diện của Phạm Duy trong những sáng tác của mình. Với Phạm Duy, mọi hư danh, nhất là với người bạn ông coi như tri kỷ, như tiền bối, dường như đều vô nghĩa.

Năm 1944, khi Văn Cao tham gia Việt Minh, dựa trên phần nhạc cũ, ông đã viết lại phần lời mới cho ca khúc với tên gọi Đàn chim Việt. Ca khúc vượt ra khỏi câu chuyện tình cảm đôi lứa cá nhân mà mang khát vọng hòa hợp dân tộc. Đàn Chim Việt cũng lan tỏa mạnh mẽ và có sức sống riêng không thua kém Bến xuân.

Bản nhạc tình lãng mạn nhất

Được coi như thế hệ thứ hai của tân nhạc Việt Nam, hồn nghệ thuật của Văn Cao là sự hội tụ và phát tiết đến đỉnh điểm của sự lãng mạn và tinh tế, ảnh hưởng từ văn hóa Pháp và của thế hệ nhạc sĩ đi trước như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Lưu Hữu Phước…

Ở Văn Cao có sự kết hợp tài tình của nhạc ngữ phương Tây giai đoạn đầu với âm hưởng và màu sắc cổ nhạc dân tộc. Trong các giai đoạn đầu của tân nhạc, với những bản tình ca mùi mẫn, dù vẫn sử dụng những nốt luyến láy và kỹ thuật nhảy nốt mang âm hưởng của ca trù hay âm nhạc ngũ cung, Văn Cao cũng khéo léo thoát ra khỏi hình thái cũ của cổ nhạc, vận dụng sáng tạo và duyên dáng các cấu trúc ca khúc của phương Tây như hợp âm vòng, cấu trúc ba đoạn… tạo nên những tác phẩm sang trọng và diễm lệ bất chấp mọi thời đại, khiến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng phải nghiêng mình kính phục: “Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn Cao là âm nhạc của thần tiên bay bổng…”.

Tính lãng mạn trong âm nhạc của Văn Cao như khởi thủy của những bản nhạc chữa lành tâm hồn, với giai điệu uyển chuyển du dương. Toàn tài ở cả ba lĩnh vực âm nhạc – hội họa – thơ ca, các ca khúc của Văn Cao luôn hiện lên như một bức tranh tuyệt mỹ. Đó là cái đẹp vượt lên trên cả khổ đau của nhân gian, dù nói về nỗi buồn cũng không chút oán hận hay tuyệt vọng.

Như Phạm Duy từng nói: “Nhạc sầu của nhiều tác giả khác, nhiều khi chỉ là sầu giả tạo; còn tình ca của Văn Cao, nếu là tình buồn cũng không bao giờ bi lụy”. Điều này không chỉ thể hiện ở Bến xuân mà xuyên suốt con đường âm nhạc của Văn Cao. Ông luôn dành cho tác phẩm của mình cái nhìn bao dung và say sưa với cuộc đời, dù đó là một cuộc đời không bằng phẳng. Đó là tầm vóc của một nghệ sĩ lớn, một nhân cách lương thiện mà nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này phải học hỏi và ngưỡng mộ.

Trong cuốn Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu, Phạm Duy viết: “Nói tới nhạc tình, Văn Cao là nhất!” và “nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm tân nhạc thì những bài Suối mơ, Bến xuân… là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa”.

Dù sau này Văn Cao thành công lẫy lừng ở nhiều thể loại nhạc khác nhau như trường ca hay nhạc cách mạng… nhưng với nhạc tình lãng mạn, Văn Cao vẫn là dấu son chói lọi, giúp định hình một giai đoạn sơ khai của tân nhạc Việt Nam đạt đến cực điểm của trữ tình duy mỹ. Văn Cao như một cây đại thụ khiêm nhường nhưng tỏa bóng mát sâu rộng, đầy ảnh hưởng đến nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này.

 Lan Anh/PNO

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm