TIN TỨC

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-11-09 16:29:11
mail facebook google pos stwis
1228 lượt xem

CHÂU HỒNG THỦY

Trường ca "Những ngọn khói về trời" của Bùi Phan Thảo là cuốn truyện bằng thơ, kể lại một thảm họa lịch sử - đại dịch COVID - 19 vừa mới xảy ra ở TP. Hồ Chí Minh.

"Những ngọn khói về trời" giống như một bộ phim tư liệu nhiều tập, có nhiều phân cảnh đan xen, có những khung cảnh chung bi tráng, có lúc lại cụ thể chi tiết như ống kính tập trung đặc tả. Mười chương của trường ca:"Đêm trước ngày phong tỏa", "Nhân loại bàng hoàng", "Sài Gòn đau một phần thân thể", "Những chiến binh thầm lặng", "Thơm mãi những bàn tay", "Chúng tôi chỉ tạm xa thành phố", "Những ngọn khói về trời", "Đối diện", "Tưởng niệm", "Hồi sinh" đã tái hiện được cả quá trình của thảm họa đau thương mà người dân thành phố gánh chịu…

Mở đầu tập thơ là những "thước phim" tả cảnh TP Hồ Chí Minh "Đêm trước ngày phong tỏa" đầy âu lo, với dự cảm tang tóc cận kề. Ống kính tập trung vào nhân vật "tôi - tác giả" đang mất ngủ "đứng trên tầng 20 cao ốc chung cư" nhìn xuống thành phố "ánh điện nhiều tháng rồi vàng vọt hơn…". Vì dịch bệnh kéo dài đã nhiều ngày nên "thành phố vắng hoe… tiếng rao đêm đã chìm sâu sau những bức tường mái tôn dãy trọ/ không có tiếng xe ba gác phành phạch giữa khuya/ í ới gọi nhau ra chợ Bình Điền gom hàng về bỏ mối…" (tr 14).


Nhà thơ Bùi Phan Thảo

Những âm thanh trong đêm bây giờ chỉ là những âm thanh báo hiệu chết chóc: "Xe cứu thương rúc những hồi còi dài nhức nhối tâm can/ xoắn thêm những nỗi lo rõ ràng và mơ hồ/ có tên và không tên/ cứ sợ thành phố bật cơn ho rũ rượi/ ôm ngực đau/ đôi mắt thâm quầng"… Rồi ống kính máy quay đặc tả hai gương mặt: "Ông già bán vé số nằm chèo queo không biết ngày mai lấy gì để sống/ thằng bé lượm ve chai ngồi mơ gói xôi mặn có miếng lạp xưởng mỏng dính mỡ màng" (tr 14). Hai nhân vật này đại diện cho những thân phận tha hương nghèo khổ nhất, mỏng manh nhất trong đại dịch.

Nhà thơ dành nhiều dòng thơ miêu tả hoàn cảnh và nỗi tuyệt vọng của ông già bán vé số không rõ từ vùng quê nào lên thành phố mưu sinh. Tuy "Đất Sài Gòn dễ sống/ siêng năng tần tảo là có cơm ăn/ một góc vỉa hè cũng lập nghiệp, lập thân/ đất không phụ người, người không phụ đất/ Sài Gòn không đất lành chim đậu/ nhưng Sài Gòn bao dung cưu mang những phận dân nghèo" (tr 14), nhưng nào có ai nghĩ đến có một ngày dịch bệnh toàn thế giới kéo dài, cũng chẳng có ai nghĩ đến một ngày cả TP Hồ Chí Minh bị phong tỏa, nên giờ lâm vào cảnh lao đao. Lệnh phong tỏa đến trong lúc"những đồng tiền còm cõi đã bay đi theo bàn tay trắng", nhiều người chẳng còn khả năng trả tiền thuê nhà trọ, chẳng còn tiền mua nổi một cái bánh mỳ, hay cân gạo. Ông già kể: "Mấy hôm trước theo nhau làm một cuộc hồi hương bất thành/ quay lại sống qua ngày trong xóm trọ buồn thiu dây giăng tứ phía/ nay thành phố phong tỏa thêm một tháng/ lại vội vã hồi hương rồi cũng bất thành…" (tr 15).

Dịch bệnh đã tạo nên cảnh "sân bay vắng bóng người/ quốc lộ vắng bóng người/ phố xá đìu hiu/ làng quê quạnh quẽ/ ai ở đâu yên đấy/ mà lòng nào yên…"  (tr 26). TP Hồ Chí Minh trở thành nơi ''những chùm ca bệnh dồn vào hẻm nhỏ/ khăn tang trắng từ đầu con phố/ nước mắt vòng quanh ra đến bờ kinh" (tr 33-34).

Là nhà báo trực tòa soạn hàng ngày phải nhận dữ liệu, sắp xếp đưa tin số ca nhiễm bệnh, số người chết vì COVID-19 lên báo kịp thời, với Bùi Phan Thảo, đó không chỉ là những con số, mà còn là những thân phận bất hạnh của kiếp người: "Biết mỏng mảnh lằn ranh tử sinh/ mà vẫn nhói lòng con số mỗi ngày trên báo/ tôi ngồi lặng trước tin bài từng đêm giông bão/ ngoài kia gió quật mưa gào/ nước mắt khô lại đầy như biển/ sóng dâng lên trôi hết những vì sao" (tr 35).

Chương "Chúng tôi chỉ tạm xa thành phố" viết về cuộc hồi hương bất đắc dĩ là chương bi tráng nhất của trường ca. "Về thôi em/ về quê mình ư, xa lắm/ xa cũng phải về, ở đây không biết ra sao/ kéo nhau đi còn hơn chờ điều không rõ/ ừ thôi chở nhau về trên xe máy/ những ngả đường thiên lý vắng người qua/ bên vệ đường có ai nằm lại/ không đi nổi, bỏ cuộc rồi/ một nén nhang thay cho lời tạm biệt'' (tr 68-69). Cuộc hồi hương vạn dặm này (chủ yếu về phương Bắc) là con đường đi ngược với hành trình của cha ông. "Chúng tôi đi đường thiên lý rùng rùng/ vó ngựa xưa của cha ông tung bụi mù thế kỷ/ chinh chiến lao lung đổi lấy hòa bình/ con cháu hôm nay đối diện với nghiệt ngã tử sinh/ phải chọn lối về trú ngụ…" (tr 70).

Khó cầm được nước mắt khi đọc những dòng thơ tác giả miêu tả trong đoàn người hồi hương ấy, có hình ảnh người vợ trở về trong một chiếc bình tro trên tay người chồng: "Cha đưa mẹ về quê/ cha nâng mẹ trên tay ôm mẹ trong lòng/ đường dài hun hút mắt cha sâu như đêm trường/ Thôi em về yên nghỉ với quê hương/ bỏ lại phồn hoa những ngày yêu dấu/ những buổi tan ca hò hẹn tình đầu/ chúng ta đã có một gia đình/ có tiếng cười trong veo của con/ chúng ta đã có tất cả/ nhưng đại dịch đã lấy đi tất cả/ anh đưa em về/ quên hết buồn thương đau khổ/ em ngủ ngon trên xứ sở quê nhà/ trong lời ru ngọn gió đồng xa/ trong nỗi nhớ buồng tim anh quặn thắt…" (tr 73), hoặc người vợ vừa thoát khỏi lưỡi hái tử thần, mất trí, thẫn thờ, bởi trụ cột tựa nương của đời mình giờ chỉ còn là một bình tro: "Nhưng sao anh bỏ em đi trước/ em cô đơn và con mồ côi/… nén đau thương em biết mình mất trí/ quờ quạng đi quờ quạng sống qua ngày/ đưa anh về bến gió lắt lay/ gửi tro cốt lên chùa cho ấm cúng/ chiều xưa bờ sông tay trong tay/ chiều nay bờ sông hồi chuông rụng/ hơi thở trầm nghi ngút khói hương…" (tr 76)

Hình ảnh "Những ngọn khói về trời", là ngọn khói lò hỏa thiêu, là biểu trưng cho những linh hồn từ bỏ cõi đời trần thế về với cao xanh. Nhìn những ngọn khói bay lên trời suốt ngày đêm, kéo dài trong nhiều ngày không ngớt, người ta biết được mức độ của thảm họa.

Đọc "Những ngọn khói về trời", ta thấy Bùi Phan Thảo như hóa thân vào linh hồn của những người đã khuất, nhiều người chưa đi hết nửa cuộc đời đã phải chịu cái chết oan uổng - để nói lên nỗi lòng của họ: "Lối về đã trùng trùng vạn dặm/ lũ quỷ dẫn đường cho cuộc chia ly/ âm dương nhập nhòa chiều hôm nhập nhoạng/ có người vịn cành cây rướn cổ hát một bài ca/ Hát rằng: Quê hương ơi ta từng có quê hương/ nhà cửa ơi ta từng có cửa nhà/ phiêu bạt thân ta về viễn xứ'' (tr 86) "Những người mà thân xác không được trở về với nơi chôn rau cắt rốn: "Xác thân cha mẹ cho trở về tro bụi/ không về với đất bên mảnh vườn nhà/ không về làng xóm nghe tre ru ngân nga/ vào chùa nghe kinh nhẹ lòng siêu thoát/ ra sông tan vào phù sa/ ở ngoài kia còn có bao người chờ tới lượt/ bó lấy thân và dòng chữ ghi tên/ có người chỉ ghi vỏn vẹn: vô danh" (tr 87). Hình như tất cả tình cảm, bút lực của nhà thơ đã trút hết vào chương "Những ngọn khói về trời" để tạo nên một chương cảm động nhất, hay nhất của trường ca.

Dịch bệnh đã tạm lắng. TP Hồ Chí Minh cùng cả nước tưởng niệm, cầu siêu cho những người đã mất, mong cho linh hồn họ được siêu thoát ở cõi vô cùng. Khói của những ngọn nến cũng giống như ngọn khói lò hỏa thiêu, là linh hồn những người từ bỏ cõi trần, những ngọn khói giống như những câu hỏi day dứt đối với người đang sống: "Ngọn khói như dấu hỏi quẩn quanh/ rồi cũng tan vào hư vô thăm thẳm… những câu hỏi không lời đáp/ những đớn đau không di cư…" (tr 102-103). Trong khi tưởng niệm, cầu nguyện cho người đã khuất, không khí đau buồn, bi thương lại hiện về: "Có ngày người dân nước tôi đã khóc/ nước mắt thành dòng/ chảy như sông/ trên khắp ba miền/ ngược nguồn thấm vào núi/ xuôi dòng về biển khơi/ bé thơ đội vành tang trắng/ thương em gan ruột bời bời/ Đại dịch cướp đi bao sinh linh vô tội/ trong mắt đầy lên ám tượng không rời/ chập choạng phiên chợ chiều cánh dơi bay vào lịch sử/ người gọi người hoảng hốt chơi vơi/ xin những người không thể trở về/ hãy yên nghỉ trong tiếc thương vô tận/ đêm nay ngọn nến sáng lòng người/ xoa dịu nỗi đau bằng bàn tay ấm'' (tr 103-104). Và mừng thay, bĩ cực thái lai, thành phố đã hồi sinh: "Nắng lên xanh phố phường tấp nập… bé thơ đến trường rộn ràng lớp học/ xí nghiệp vào ca tiếng máy như reo... xin cảm ơn người đã trở về/ lá gọi ngày đông tàn khẽ rụng/ đất gọi trời đem về xuân xanh/ đóa tình thơm, nở giữa lòng lành" (tr 107-114).

COVID-19 là đại họa, đồng thời đại họa cũng là lời cảnh báo, dạy cho con người những bài học đắt giá: Không được tự phụ, cao ngạo trước thiên nhiên - tạo hóa. Chỉ là con virus nhỏ bé, gần như vô hình, mà nó đã quật ngã những thân thể cường tráng, lấy đi hàng triệu sinh mạng trên thế giới, làm cả loài người chao đảo, bàng hoàng, nó tàn phá nền kinh tế của các quốc gia. Đại dịch cũng là phép thử, góp phần sàng lọc con người: Những mặt tốt của con người được bộc lộ rõ ràng, những mặt xấu được phơi bày trần trụi. Hai chương "Những chiến binh thầm lặng" (tr 39- 47) và "Thơm mãi những bàn tay" (tr 49-61) tập trung miêu tả sự hy sinh cao cả của những chiến sĩ ngành y cứu mạng sống của người dân; miêu tả tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau của cả nước dành cho người dân Sài Gòn. Hai chương "Nhân loại bàng hoàng" (tr 17-28) và "Đối diện" (tr 91-98) góp phần vạch trần những bọn bất nhân vì lòng tham móc nối câu kết với nhau làm tiền trên sinh mạng của người dân vô tội và yếu thế. Nhà thơ khẳng định sẽ có lúc bọn bất nhân phải đối diện với tòa án lương tâm, đối diện với linh hồn những người chết trong oan ức, đối diện với luật nhân quả.

Nguồn: https://vnca.cand.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm