TIN TỨC

Cao Bá Quát - Xuất khẩu thành thơ để phê bình thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
209 lượt xem

Nguyễn Tiến Bình

Cao Bá Quát được mệnh danh là Thần đồng Thơ. Ông tài chữ, tài thơ, nên người đời tôn vinh nhà thơ Cao Bá Quát là Cao Chu Thần. Ông sinh năm 1808, mất năm 1855. Ông sống cùng thời với Thần chữ Nguyễn Văn Siêu, người dùng chữ như của Trời, Phật, đã có chữ đề trên Đài Nghiên Tháp Bút nơi Hồ Gươm cùng nhiều nơi danh thắng, linh thiêng khác. Bởi thế, người đương thời tụng ca và đặt danh xưng cho hai ông là "Thần Siêu, Thánh Quát", đồng thời luôn thán phục, trân trọng, tôn vinh hai ông, với nhiều mỹ từ đặc biệt, như : "Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán".

Danh sĩ Cao Bá Quát

Thời gian Cao Thần ở Huế, giữ chức quan Hành tẩu Bộ Lễ của Triều đình nhà Nguyễn. Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng ông được mọi người mến mộ, nể trọng,  kính phục, bởi ông là tấm gương sáng về nhân cách và tài năng, nhất là thơ. Vua các đời, đều kính nể ông, kể cả ông Vua giàu trí thức, tài thơ nhất trong 13 đời Vua, như Tự Đức, với việc Tự Đức cho ra đời hàng loạt tác phẩm thơ sáng giá, như "Ngự chế thi tập", "Cơ dư tự tình thi tập", " Việt sử tổng vịnh thi tập"…, được cả quan quân Triều đình hết lời ca ngợi. Suốt đời mình, Cao Bá Quát luôn thẳng thắn, khách quan, khảng khái, quyết liệt, kiên định, coi khinh hám danh, trục lợi, tầm thường, nịnh bợ, hèn nhát…

Trong thơ của Cao Thần cũng vậy, nên nhiều người ghen ghét, bực tức, mà vẫn ngầm mến phục và ngậm đắng nuốt cay. Trong giao lưu thơ ở chốn Cung đình, tính ông cũng thể hiện rõ, không kiêng nể một ai, kể cả Vua, ông cứ nói toạc ra câu hay, câu dở những bài thơ của Vua. Mà lại là những ý kiến phê bình thơ rất thẳng thắn, chính xác. Thế mới lạ về tính khí Cao Thần.

Một lần, vua Tự Đức khoe rằng: Đêm qua nằm mơ, bỗng nẩy ra câu thơ rất hay, nay trẫm đọc cho mọi người nghe:

                                       Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ

                                       Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai…

Nghe Vua đọc xong, các nhà thơ Cung đình hết lời ca ngợi thơ của ông Vua, họ khen đến xôn xao cả lên. Ngược lại, Cao Bá Quát đứng lên trình tâu: "Thưa Bệ hạ! Đây là thứ thơ cũ, mà hạ thần đã nghe và thuộc từ lúc còn trẻ… Nghe Cao Bá Quát nói, vua Tự Đức chưa hết ngạc nhiên, và bực tức. Không những thế, Cao Bá Quát còn tức khí, xuất khẩu ngay bài thơ phê bình thơ của Vua:

                                        Bảo mã tây phong huếch hoác lai

                                        Huênh hoang nhân tự thác đề hồi!

                                        Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ

                                        Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai

                                        Xuân nhật bất văn sương lộp bộp

                                        Thiên thu chi kiến vũ bài nhài

                                        Khù khờ thi tứ đa nhân thức

                                        Khệnh khạng tương lai vẫn tú tài…!

    Bài thơ được dịch ra là:

                                         Huếch hoác ngựa về theo gió đưa

                                         Huênh hoang người cũng tự đi về

                                         Oanh vườn học nói khề khà giọng

                                         Đào nội đưa cười lấm tấm hoa                                         

                                                             -  2  -

                                         

                                         Lộp bộp chẳng nghe xuân móc nặng

                                         Bài dài chỉ thấy hạt mưa thu

                                         Khù khờ cu cú ai chẳng biết

                                         Khệnh khạng còn đem hỏi khách thơ!

 

Bình thơ thẳng thắn bằng thơ của Cao Bá Quát. Đây là kiểu bình thơ có một không hai ở Việt Nam. Qua lời bình, vua Tự Đức đã hiểu Cao Bá Quát đánh giá thơ của mình là ý cũ, tứ không có gì mới và thơ sáo rỗng… Đó là, Cao Bá Quát đánh giá chính xác thơ của Tự Đức không hay, một cách bộc trực, không kiêng nể, không sợ Tự Đức là Vua, mà đánh giá bằng thơ về thơ của Vua, với sự lập tức nẩy ra bằng các ý thơ chính xác, sâu sắc, chắc chắn… Thế mới thật kỳ tài. Nhưng, "Cái tài đi với cái tai một vần", và "Thẳng thắn thật thà thì thua thiệt". Họ tức bực Cao Bá Quát, coi ông như cái gai trong mắt của ông Vua hám danh, khoe tài-Tự Đức.

Ngay cả nhiều bài thơ của những nhà thơ nổi tiếng trong Triều đình, và ở "Thi xã Mặc Vân" của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, với tài chữ, tài thơ, Cao Bá Quát đã không khách khí, giữ ý, giữ nhẽ, mà phê bình thẳng thừng:

                                          Ngán thay, cái mũi vô duyên

                                          Câu thơ Thi xã con thuyền Nghệ An

Lại dùng thơ phê bình thơ, mà lại so sánh những câu thơ của Thi xã với mũi của con thuyền buôn mắm Xứ Nghệ, có mùi không thể ngửi được, thì là cách phê bình vừa tài, vừa chính xác, mạnh mẽ, và ghê gớm.

Dù Tùng Thiện Vương không thích cách phê bình thẳng thừng, chính xác của Cao Bá Quát, nhưng cũng ngấm thấy ý đúng của Cao Thần, mà dần dần nhận ra điều là Cao Thần phê đúng, nói giỏi bằng thơ. Cho nên, dù có lúc Tùng Thiện Vương tức bực Cao Bá Quát, nhưng do phục tài, ông đã sớm biết hối, rồi từ trân trọng tài năng thực sự nức tiếng của Thánh Quát. Từ đó, tình thi hữu, tình bạn, tình thơ của hai thi sĩ lớn này càng hay, càng đẹp, thắm thiết, như hoa, như gấm, bền như thép, như gang.

 

                                           N.T.B

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm