TIN TỨC

Cao Bá Quát - Xuất khẩu thành thơ để phê bình thơ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-01-07 10:52:46
mail facebook google pos stwis
1643 lượt xem

Nguyễn Tiến Bình

Cao Bá Quát được mệnh danh là Thần đồng Thơ. Ông tài chữ, tài thơ, nên người đời tôn vinh nhà thơ Cao Bá Quát là Cao Chu Thần. Ông sinh năm 1808, mất năm 1855. Ông sống cùng thời với Thần chữ Nguyễn Văn Siêu, người dùng chữ như của Trời, Phật, đã có chữ đề trên Đài Nghiên Tháp Bút nơi Hồ Gươm cùng nhiều nơi danh thắng, linh thiêng khác. Bởi thế, người đương thời tụng ca và đặt danh xưng cho hai ông là "Thần Siêu, Thánh Quát", đồng thời luôn thán phục, trân trọng, tôn vinh hai ông, với nhiều mỹ từ đặc biệt, như : "Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán".

Danh sĩ Cao Bá Quát

Thời gian Cao Thần ở Huế, giữ chức quan Hành tẩu Bộ Lễ của Triều đình nhà Nguyễn. Tuy làm chức quan nhỏ, nhưng ông được mọi người mến mộ, nể trọng,  kính phục, bởi ông là tấm gương sáng về nhân cách và tài năng, nhất là thơ. Vua các đời, đều kính nể ông, kể cả ông Vua giàu trí thức, tài thơ nhất trong 13 đời Vua, như Tự Đức, với việc Tự Đức cho ra đời hàng loạt tác phẩm thơ sáng giá, như "Ngự chế thi tập", "Cơ dư tự tình thi tập", " Việt sử tổng vịnh thi tập"…, được cả quan quân Triều đình hết lời ca ngợi. Suốt đời mình, Cao Bá Quát luôn thẳng thắn, khách quan, khảng khái, quyết liệt, kiên định, coi khinh hám danh, trục lợi, tầm thường, nịnh bợ, hèn nhát…

Trong thơ của Cao Thần cũng vậy, nên nhiều người ghen ghét, bực tức, mà vẫn ngầm mến phục và ngậm đắng nuốt cay. Trong giao lưu thơ ở chốn Cung đình, tính ông cũng thể hiện rõ, không kiêng nể một ai, kể cả Vua, ông cứ nói toạc ra câu hay, câu dở những bài thơ của Vua. Mà lại là những ý kiến phê bình thơ rất thẳng thắn, chính xác. Thế mới lạ về tính khí Cao Thần.

Một lần, vua Tự Đức khoe rằng: Đêm qua nằm mơ, bỗng nẩy ra câu thơ rất hay, nay trẫm đọc cho mọi người nghe:

                                       Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ

                                       Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai…

Nghe Vua đọc xong, các nhà thơ Cung đình hết lời ca ngợi thơ của ông Vua, họ khen đến xôn xao cả lên. Ngược lại, Cao Bá Quát đứng lên trình tâu: "Thưa Bệ hạ! Đây là thứ thơ cũ, mà hạ thần đã nghe và thuộc từ lúc còn trẻ… Nghe Cao Bá Quát nói, vua Tự Đức chưa hết ngạc nhiên, và bực tức. Không những thế, Cao Bá Quát còn tức khí, xuất khẩu ngay bài thơ phê bình thơ của Vua:

                                        Bảo mã tây phong huếch hoác lai

                                        Huênh hoang nhân tự thác đề hồi!

                                        Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ

                                        Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai

                                        Xuân nhật bất văn sương lộp bộp

                                        Thiên thu chi kiến vũ bài nhài

                                        Khù khờ thi tứ đa nhân thức

                                        Khệnh khạng tương lai vẫn tú tài…!

    Bài thơ được dịch ra là:

                                         Huếch hoác ngựa về theo gió đưa

                                         Huênh hoang người cũng tự đi về

                                         Oanh vườn học nói khề khà giọng

                                         Đào nội đưa cười lấm tấm hoa                                         

                                                             -  2  -

                                         

                                         Lộp bộp chẳng nghe xuân móc nặng

                                         Bài dài chỉ thấy hạt mưa thu

                                         Khù khờ cu cú ai chẳng biết

                                         Khệnh khạng còn đem hỏi khách thơ!

 

Bình thơ thẳng thắn bằng thơ của Cao Bá Quát. Đây là kiểu bình thơ có một không hai ở Việt Nam. Qua lời bình, vua Tự Đức đã hiểu Cao Bá Quát đánh giá thơ của mình là ý cũ, tứ không có gì mới và thơ sáo rỗng… Đó là, Cao Bá Quát đánh giá chính xác thơ của Tự Đức không hay, một cách bộc trực, không kiêng nể, không sợ Tự Đức là Vua, mà đánh giá bằng thơ về thơ của Vua, với sự lập tức nẩy ra bằng các ý thơ chính xác, sâu sắc, chắc chắn… Thế mới thật kỳ tài. Nhưng, "Cái tài đi với cái tai một vần", và "Thẳng thắn thật thà thì thua thiệt". Họ tức bực Cao Bá Quát, coi ông như cái gai trong mắt của ông Vua hám danh, khoe tài-Tự Đức.

Ngay cả nhiều bài thơ của những nhà thơ nổi tiếng trong Triều đình, và ở "Thi xã Mặc Vân" của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, với tài chữ, tài thơ, Cao Bá Quát đã không khách khí, giữ ý, giữ nhẽ, mà phê bình thẳng thừng:

                                          Ngán thay, cái mũi vô duyên

                                          Câu thơ Thi xã con thuyền Nghệ An

Lại dùng thơ phê bình thơ, mà lại so sánh những câu thơ của Thi xã với mũi của con thuyền buôn mắm Xứ Nghệ, có mùi không thể ngửi được, thì là cách phê bình vừa tài, vừa chính xác, mạnh mẽ, và ghê gớm.

Dù Tùng Thiện Vương không thích cách phê bình thẳng thừng, chính xác của Cao Bá Quát, nhưng cũng ngấm thấy ý đúng của Cao Thần, mà dần dần nhận ra điều là Cao Thần phê đúng, nói giỏi bằng thơ. Cho nên, dù có lúc Tùng Thiện Vương tức bực Cao Bá Quát, nhưng do phục tài, ông đã sớm biết hối, rồi từ trân trọng tài năng thực sự nức tiếng của Thánh Quát. Từ đó, tình thi hữu, tình bạn, tình thơ của hai thi sĩ lớn này càng hay, càng đẹp, thắm thiết, như hoa, như gấm, bền như thép, như gang.

 

                                           N.T.B

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm