TIN TỨC

Chặng chữ, đời người | Nguyễn Hữu Quý

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-30 15:37:31
mail facebook google pos stwis
1515 lượt xem

NGUYỄN HỮU QUÝ

Mơ ước. Hy vọng. Thất vọng. Và, hy vọng… Đó là gì tôi có thể gom gói lại khi muốn nói về chặng chữ của mình. Với tôi, đời người đã nhuốm màu nắng quái, chẳng mấy chốc nữa sẽ thập thững bước tới hoàng hôn và cõi mênh mang bí ẩn nhất cũng không còn xa xôi mấy nữa. Chặng chữ còn lởm khởm làm sao; những gì đã có chưa làm ta yên lòng, chưa đủ mặn, chưa đủ thấm dẫu sách mang tên mình đã có vài chục quyển gồm nhiều thể loại thơ, trường ca, truyện ngắn, bút ký tản văn và phê bình. Văn chương là nỗi nhọc nhằn, như sự gánh gồng định mệnh của đời ta, đời người, chấm vo lại là mình, mở toang ra là thiên hạ. Viết là khó, quá khó nên không mấy dễ được trời chọn để trao bút. Càng hiếm hoi người tài trong làng văn. Cỡ như Nguyễn Du là rất hiếm, không tài ba làm sao Cụ có được "Truyện Kiều" lẫy lừng bốn phương để cho thiên hạ mấy trăm năm nay vẫn còn khóc cười với một phận đàn bà "Sắc đành đòi một, tài đành họa hai" nhưng phũ phàng mệnh bạc xuyên muôn thế kỷ. Thế mà Cụ dặn: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Nghĩ xa, nghĩ gần, chợt vận vào ta, hay Cụ viết thế để an ủi những kẻ cầm bút ít tài như mình nhỉ.

Nói thật, nhiều lúc tôi tự thấy hoang mang trước tấm thẻ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hoang mang hay nỗi sợ hãi nghề viết. Đọc những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, bài thơ tầm cao nỗi sợ hãi càng chất chứa, dâng đầy. Văn chương là như thế, viết như lấy giọt sống của đời mình nuôi dưỡng, tưới tắm cho con chữ, viết là đang bay lên chốn cõi khác, không gian khác, thời gian khác trong sự sáng tạo bất tận, hướng tới cái đẹp của con người, vì con người. Cảm hứng ở đấy và thách thức cũng ở đấy thôi, trong cái nghề văn vốn nhiều bão táp. Bởi thế, danh giá nhà văn không nằm ngoài tác phẩm. Tôi ít tự tin về mình có lẽ cũng vì lẽ đó. Vậy nên, khi kể lại câu chuyện trở thành nhà thơ ít nhiều tôi có vân vi. Ai công nhận danh hiệu đó cho mình? Mấy người cho nó xứng đáng với tôi, cái gọi là nhà thơ ấy? Tự nhủ, kể lại thành thật chặng chữ trong đời người mình may ra sẽ được chia sẻ, thông cảm. Đó cũng là hy vọng cho tương lai không dài lắm nữa, sau những ước mơ, hy vọng và thất vọng của nghề cầm bút cô đơn, chòng chành, vô định.

Cát. "Cát đi mãi chẳng thành đường/ Tôi đi theo lối mẹ thường hát ru"… Cát ở cuối dòng sông Gianh, tên cổ là Linh Giang, qua mẹ đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi. Người ta bảo cái làng Thanh Khê của tôi chỉ được “phát” về văn. Võ thì có phần lẹt đẹt, trải qua mấy cuộc chiến tranh tàn khốc, chẳng có nổi một vị tướng nào hết dù trai làng ra trận không ít. Cũng không ít người đã chết nơi hòm tên, mũi đạn. Một cái làng có 3 người là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, theo cách nghĩ thông thường thì cũng đáng tự hào đấy chứ. Hoàng Bình Trọng. Mai Văn Hoan. Và, tôi. Ba nhà văn sinh ra từ làng Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Tôi, được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam từ đầu năm 2000 (danh sách của năm 1999), sau gần ba năm được tạp chí Văn nghệ quân đội “móc” từ Trường Sơn ra như cách nói vui vui của nhà thơ Trần Đăng Khoa hồi nào. Nhớ lại, đầu năm 1997, tôi rón rén bước qua hai cây đại ở cổng Nhà số 4 phố Lý Nam Đế, Hà Nội để trở thành biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội. Trước đó, tháng 12/1995, bài thơ "Bông huệ trắng" của tôi được in trên Tạp chí này và quá may mắn khi nó được tặng thưởng tác phẩm xuất sắc năm. Sau này, tôi được biết người trực tiếp biên tập tác phẩm đó là Vương Trọng và Trưởng ban Thơ lúc này là Nguyễn Đức Mậu. Tin vui bay về vùng đất Quảng Trị khắc bạc nơi đơn vị tôi đóng quân. Điều tôi không bao giờ nghĩ tới, chính xác là vậy, đã đến nhẹ nhàng và tự nhiên như thế. Tuy nhiên, bài thơ chẳng nhẹ nhàng chút nào cả vì nó chạm sâu vào nỗi buồn hậu chiến với sự mất mát, đau thương không kể xiết của dân tộc này: “Những người lính trở về têm cho mẹ miếng trầu cay/ giấc mơ mẹ đỏ tươi từng giọt máu/ những người lính trở về xòe tay trên bếp khói/ giấc mơ mẹ mình đơm óng ả hạt mùa chiêm/ những người lính trở về đánh rạ dọn rơm/ giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng/ những người lính trở về cười ngượng nghịu/ giấc mơ người bật dậy tiếng oa oa…”. Tiếp đó, tôi được Văn nghệ Quân đội mời đi Trại viết ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Năm 1996, thêm một dấu mốc dẫn tôi đến với con đường văn chương “chuyên nghiệp”. Đêm tháng 5, giữa khuya khoắt, tiếng sóng từ biển Đồ Sơn dội vào tôi những thổn thức kỳ lạ. Hình như có cả sự bồn chồn nữa. Trong bóng tối, tự nhiên trước mắt tôi hiện lên hình ảnh những nấm mộ ở Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn. Rõ mồn một. Cứ như mình đang đứng dưới gốc bồ đề huyền thoại giữa bốn bề chỉnh tề đội hình bia mộ liệt sĩ. Và, những câu thơ như có ai đó đọc lên từ trong thăm thẳm: "Nằm kề nhau/ những nấm mộ giống nhau/ Mười nghìn bát hương, mười nghìn ngôi sao cháy/ Mười nghìn tiếng chuông ngân trong im lặng/ Mười nghìn trái tim neo ở đầu nguồn…”. Tôi bàng hoàng, ngồi dậy, bật đèn chép những câu thơ đang tuôn ra: “Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn/ Mười nghìn lời ca trong bài ca lớn/ Mười nghìn cái tên đêm đêm mẹ nhắc/ Mười nghìn giấc mơ của mẹ chờ ta/ Mười nghìn con đò thương về bến đợi/ Mười nghìn hạt giống chưa về phù sa”…Biển hửng sáng cũng là lúc bài thơ làm xong với câu kết Mười nghìn khát vọng được về bên nhau. Tôi đặt tên cho thi phẩm là Khát vọng Trường Sơn. Bài thơ mang đến cho tôi vinh dự mới; "Khát vọng Trường Sơn" được xếp giải Nhì (không có giải Nhất) cùng Lương Ngọc An trong cuộc thi thơ của Văn nghệ quân đội năm 1996. Có lẽ, từ bài thơ này cộng với âm hưởng của Bông huệ trắng mà Văn nghệ quân đội muốn xin tôi về Tạp chí. Trước đó gần hai mươi năm, lúc tôi còn Trung sỹ, Tết Bính Thìn 1976 bài thơ đầu tiên của tôi đã được in vào Văn nghệ quân đội. Đó là một bài thơ hồn nhiên chất lính chỉ có 8 câu chia làm 2 khổ viết theo thể lục bát, mang tên "Trên đường hành quân". Với tôi, có lẽ chưa có mùa xuân nào vui như mùa xuân đó. Thời học cấp ba, tôi đã rất mê Văn nghệ quân đội và hay đọc ké của các anh bộ đội nghỉ lại mấy hôm ở Cự Nẫm (Bố Trạch, Quảng Bình) trước khi đi vào chiến trường miền Nam. Hình ảnh người chiến sĩ - nhà thơ thực sự ấn tượng với tôi qua những Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy…thời ấy. Tôi mê thơ các anh, những bài thơ đánh giặc như mọi người từng gọi. Thú thật, thế hệ chúng tôi khi ngồi trên ghế nhà trường phổ thông chủ yếu được đắm mình trong dòng thơ kháng chiến, thơ cách mạng, ít được đụng chạm vào các luồng thơ khác như lãng mạn của thời tiền chiến. Từ yêu mê đến mơ ước trở thành nhà thơ chiến sĩ chỉ là một khoảng cách rất gần. Và tôi lặng thầm viết. Những câu thơ thời học trò mơ mộng đã không mảy may còn lại chút dấu vết nào nữa, tội nghiệp thật, nhưng biết làm sao được. Trường hợp nhà thơ thiếu nhi như Trần Đăng Khoa, Hoàng Hiếu Nhân…là quá đặc biệt. Phần lớn, chắc cũng như chúng tôi, yêu thích văn chương, tập tểnh làm thơ viết văn thời mình còn quá trẻ để rồi không ít người thất vọng thoái lui. Với tôi, còn chút may mắn đấy. Con đường binh nghiệp gắn liền với con đường viết văn, làm báo. Những bài thơ đầu tiên được in trên các báo và tạp chí địa phương và Trung ương khi tôi đã mang áo lính. Năm 1974, chùm thơ 3 bài được in trên báo Trường Sơn, thời anh Phạm Tiến Duật làm việc ở đây. Năm 1975, bài thơ "Mưa" in trên Văn nghệ Quảng Bình. Như đã kể ở trên, năm 1976, bài thơ đầu tiên có mặt trên Văn nghệ quân đội và sau hai mươi năm tôi mới có được bài thơ thứ hai in ở đây. Nói thêm một chút, năm 1986 trên báo Văn nghệ đã in bài thơ "Có tình yêu trong ấy" của tôi. Quá bất ngờ. Tôi không trực tiếp gửi bài, nghe đâu chị Lâm Thị Mỹ Dạ (lúc ấy làm việc ở tạp chí Sông Hương) đã chọn và gửi ra Văn nghệ cho tôi.

Chỉ đến khi trở thành người của Nhà số 4, tôi mới có ý thức viết để được trở thành nhà thơ. Cái không gian nơi tôi gắn bó hai mươi năm ấy thực sự có ích với những người cầm bút như tôi. Tạp chí Văn nghệ quân đội thực sự là nơi giúp tôi trưởng thành trong nghề viết. Tôi biết con đường để trở thành nhà thơ thật dài và khúc khuỷu. Tuy nhiên, có thành công hay không chủ yếu ở mình. Bởi không ai viết thay cho mình được. Chỉ mình mới viết nên được những "Bông huệ trắng"; "Khát vọng Trường Sơn"…và những "Sinh ở cuối dòng sông"; "Hạ thủy những giấc mơ"…Nhắc đến tên tác phẩm đó những bạn đọc thân quen không thể không nhớ đến Nguyễn Hữu Quý. Tôi tin thơ cũng là đời, cái mình cất được trong thơ là cái mình giữ được trong đời. Day dứt quá khứ hay trăn trở hiện tại chất chứa trong mỗi trang viết, chung hay riêng cũng đều thế cả. Tôi bám riết vào hiện thực cuộc sống để viết như là trách nhiệm của người cầm bút. Trước hết với Tổ quốc, với nhân dân trong tư cách một người lính; tôi muốn giải bày tâm niệm đó không cần phải giấu diếm hoặc lên gân. Và chẳng có gì là không văn chương nghệ thuật cả khi ta dành phần lớn tâm huyết cho đề tài chiến tranh và người lính. Viết cũng là sống bằng những cảm nhận, thâu lọc trung thực, chân thành và đắm đuối. Viết cũng là học; học bạn, học thầy; học xưa, học nay; học dân tộc, học nhân loại…Viết là sáng tạo; sáng tạo để định hình cái riêng mình, cái duy nhất khó lẫn, không lẫn giữa đội ngũ, giữa đồng nghiệp. Viết là để soi hướng nội tâm về ánh sáng của cái thiện, hạnh phúc của con người được bảo hiểm bằng tự do đích thực, giá trị tinh thần không bị hạ thấp kinh rẻ.

Những đứa con tinh thần ra đời góp phần nhỏ bé vào đời sống văn chương Việt là niềm xúc động lớn lao của tôi. Tôi luôn hàm ơn con chữ đã cho tôi những vinh dự đẹp như từng được giải thưởng của Bộ Quốc phòng (3 lần), Hội Nhà văn Việt Nam, báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội, Nhà xuất bản Kim Đồng, Người Hà Nội, Cửa Việt…Tôi biết ơn bạn đồng nghiệp đã có những nhận xét, cổ vũ động viên. Những góc nhìn khác giúp tôi thấy rõ mình hơn. Và, chắc chắn rồi, tôi chưa thể bằng lòng thỏa mãn với những gì mình đã có trong tư cách một nhà thơ. Một nhà thơ đích thực, đúng nghĩa đòi hỏi nhiều hơn thế nữa. Con đường văn chương là bất tận, không có một cái đích cụ thể nào cả. Người ta viết khi không thể không viết và biết dừng lại khi tự thấy mình đã đuối sức, hụt hơi. Khi trở thành nhà thơ rồi không có nghĩa anh đã làm xong bổn phận của một người viết. Trước trang giấy trắng, tất cả lại là sự khởi đầu. Niềm mơ mới. Hứng khởi mới. Trăn trở mới. Vật vã mới. Hy vọng mới…Phía trước vẫn mung lung, vô định. Nhà thơ lại côi cút trên nẻo đường văn chương như một thân phận không thể đổi thay. Và có lẽ, nên thay câu hỏi “Tôi đã trở thành nhà thơ / nhà văn như thế nào? bằng câu hỏi: “Tôi đang trở thành nhà thơ / nhà văn như thế nào?” Trả lời cho kiểu câu hỏi thứ hai chẳng dễ dàng chút nào.

Tháng 6/ 2021,
NHQ
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội số đầu tháng 7.2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Phương Huyền: Khuyến đọc cũng là một phần trách nhiệm của nhà văn
Trong khuôn khổ Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2024, Sở TT-TT TPHCM đã công bố 10 Đại sứ Văn hóa đọc TPHCM nhiệm kỳ 2024-2025, trong đó có nhà văn Phương Huyền - người có nhiều hoạt động khuyến đọc trong thời gian qua. Báo Sài Gòn Giải Phóng đã có cuộc trò chuyện cùng chị.
Xem thêm
Một bút pháp mới lạ qua truyện ngắn Khai khẩu
Nguồn: Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
GS Mai Quốc Liên – Người đất Quảng cương trực
Tôi gặp GS-TS Mai Quốc Liên tại nhiều sự kiện của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Trong các cuộc họp, mỗi khi đăng đàn, ông sang sảng chất giọng Quảng đậm đà, khảng khái, thẳng thắn, thậm chí có lúc tranh luận khá gay gắt, chẳng cần rào trước đón sau, mà cũng chẳng ngại va chạm, có thể hơi làm “nghịch nhĩ” ai đó, nhưng tư duy logic, liên tưởng, liên kết các vấn đề mạch lạc. 
Xem thêm
Để thơ không “thất lạc nhau” nữa
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 9/2024
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: 350.000 tỉ đồng chấn hưng văn hóa vẫn là con số rất ít
Chiều 29.02 phát biểu tại buổi gặp mặt giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ xuân Giáp Thìn 2024, Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dành thời gian nói về vấn đề xây dựng văn hóa.
Xem thêm
Quyển sách là chữ nghĩa...
Quyển sách là chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa của một quyển sách phải kết hợp vừa từ trí tuệ vừa từ trái tim.
Xem thêm
Nhà thơ Từ Quốc Hoài để lại “Khu vườn kí ức”
Từ Quốc Hoài, đến với thơ ca khá sớm. Ông là nhà thơ cùng thời với những tên tuổi quen thuộc: Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… cũng từng vào chiến trường khói lửa. Nhưng với con đường thơ ca, ông bước chậm, thận trọng, dè dặt. Cho tới tuổi hơn 80 ông chỉ cho ra mắt độc giả sáu tập thơ. Tập thơ thứ 5, “Sóng và khoảng lặng” (2010) đoạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Kỹ tính, khó tính (trong thơ và có lẽ cả trong cuộc sống), trăn trở, tìm tòi nên thơ Từ Quốc Hoài không lẫn, tự do, phóng khoáng, lần dò khám phá chiều sâu nội tâm.
Xem thêm
Im lặng- ngôn ngữ đặc biệt của văn chương
Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo
Xem thêm
Quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ
Bài đăng báo Văn nghệ của nhà văn Bích Ngân; Thơ và ảnh của nhà thơ Nguyên Hùng...
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Đình Thi: “Một chút trắng hồng dào dạt vàng”
Bài viết của nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhân 99 năm ngày sinh nhà văn hóa lớn Nguyễn Đình Thi ,20/12/1924-20/12/2023
Xem thêm
Nguyễn Du bàn về sáng tác văn chương
Bài viết rất bổ ích của nhà thơ Vương Trọng
Xem thêm
Thử nêu cách chữa “chứng lười đọc sách” – Tác giả: Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
“Dạy con từ thuở còn thơ”; “Uốn cây phải uốn khi non”… là những điều ai cũng biết, nhưng đã có những thời đoạn do bận rộn mưu sinh và vô số sự xô đẩy, lôi kéo khác nữa, nên rất nhiều người và gia đình đã quên hoặc sao nhãng bài học giản dị và chí lý đã có tự cổ xưa. Có phải những biểu hiện tha hóa trong xã hội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ đó? Thiết nghĩ, cuộc vận động sáng tác văn học hướng đến lớp trẻ và thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam phát động đầu năm 2022 là một hoạt động thiết thực của văn giới nhằm góp phần chấn hưng đạo đức xã hội nói chung và góp phần bồi đắp tâm hồn cho lớp trẻ nói riêng.
Xem thêm
Làm mới cải lương – con dao hai lưỡi
Gần đây, cải lương được đưa lên mạng với một số hình thức mới: kết hợp rap, trang phục ma mị… Nhiều người cho rằng cải lương cần phải được “làm mới” để phù hợp với thời đại, với lớp trẻ. Nhưng làm mới cách nào để không bị mất chất, để người xem vẫn còn “nhìn ra” cải lương là câu hỏi không dễ giải đáp.
Xem thêm
“Vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng làm gì khi cuốn sách về gái điếm bị đá vào xó tường?
Nguyễn Vỹ lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển “Lục Xì” vào trong xó tường. Quyển sách vừa xuất bản, hãy còn mới tinh, nằm xơ xác bên chân tủ.
Xem thêm
Văn học dân gian Đồng Nai trong bối cảnh văn học dân gian Nam Bộ từ 1945 đến nay
Công tác sưu tầm và in ấn các tuyển tập văn học dân gian Việt Nam nói chung đã được các nhà Nho thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII với các sưu tập bằng chữ Nôm, chữ Hán. Sang đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ thì các sưu tập văn học dân gian được phát hành phổ biến nhiều hơn nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn này phần lớn vẫn là các sưu tập miền Bắc hay ở một số tỉnh thành miền Trung, ở Nam Bộ việc sưu tầm và phổ biến văn học dân gian dưới dạng các tuyển tập in ấn vẫn còn chưa được coi trọng đúng mức, do vậy không gian nghiên cứu văn học dân gian vùng miền cũng đồng thời bị bỏ ngỏ.
Xem thêm
Nhà thơ thì chơi với ai?
Nguồn: Website Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm