TIN TỨC

Có những dòng sông chảy trong thơ Đặng Nguyệt Anh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-11-20 18:47:59
mail facebook google pos stwis
1990 lượt xem

XUÂN TRƯỜNG

Nhận từ tay nhà thơ Lê Thiếu Nhơn, tập thơ mới của chị Đặng Nguyệt Anh, tôi vui mừng và đọc ngay, bởi lẽ lâu nay không gặp chị vì lý do covid, hơn nữa chị đã vượt qua hai lần covid, và tôi cũng một lần, thế mà chị vẫn sáng tác không ngừng nghỉ, đấy là tín hiệu đáng mừng cho thơ, chị đã làm nên điều kỳ vĩ.

Lưu lạc trong tập “Thơ Lẻ” của chị tôi đã ngang qua những dòng sông nhờ con đò thi ca của chị, tôi theo bước chân lãng du của chị mà đi, khi từ ngọn cỏ đến cung trăng, khi từ cuối đất đến chân trời thăm thẳm, khi từ ổ rơm quê nhà đến bưng biền xa xôi, rồi những thị thành rộn rã, dù đi bất cứ nơi đâu chị vẫn luôn đau đáu với dòng sông quê hương “Ta về gối tóc vào sông / Nghe trên đồng bãi / mênh mông quê nhà / Con cò bay lã bay la / Bà ơi thương quá tiếng bà ru xưa” (bài Bà ơi thương quá) hoặc là “Tôi bềnh bồng trôi / Thơ ấu gọi về quá khứ /Bao nhiêu năm sông chẳng đổi dòng / Cứ giữ mãi cái gì rất cũ / Cho con nước lớn ròng / Suôt một đời chung thủy  / Ơi sông” (bài Về với sông), những câu thơ chảy nỗi nhớ mơ hồ từ một dòng sông dần dần đã lộ ra hiện thực, sông nhớ đã được gọi thành tên “Xưa con cháu chúa Thượng Ngàn / Mải mê đeo đuổi cung đàn túi thơ / Đầu trời cuối bể lơ ngơ / Lãng du lạc đến bên bờ sông Ninh / Mẹ cha nhân hậu ân tình / Cưu mang con / Được hóa sinh kiếp này”.

Rồi con sông Ninh đã chảy tuổi thơ chị lớn lên thành biển đời mênh mông, dâu bể, sóng cồn bắt đầu từ tuổi đôi mươi trăng tròn chị đã ba lô lên đường vượt Trường Sơn đến miền biên viễn, cùng với thế hệ chị một thế hệ dấn thân yêu đời, băng qua một hành trình đầy gian khổ hy sinh, khác với cố nhân ta xưa bồng con lên núi chờ chồng bây giờ các chị đã làm nên điểm nhấn của thời đại, chinh phục Trường Sơn mà ra trận tiền, mà sát cánh kề vai cùng nam giới đến kháng chiến thành công. Ở những tập thơ trước, với những câu thơ mang nặng đẻ đau trong rừng miền Đông, chị đã đưa chúng ta ngược về lịch sử mà tri ân sức chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam nói chung và Đăng Nguyệt Anh nói riêng, khiến phụ nữ thế giới phải ngưỡng mộ, ngả nón xin chào. Càng đi xa chị càng thấy về gần sông Ninh đã chảy, chị vào mộng du mà nhớ “Tưởng về uống nước sông Ninh / Vui sướng quá / Bổng giật mình tỉnh ra / Sông Ninh vẫn tít mù xa / Tôi thương tôi / Kẻ nhớ nhà / Mộng du”. Đã bao lần với sông Ninh mà chị chẳng bao giờ vơi nỗi nhớ. Đúng vậy mỗi một người trong chúng ta ai cũng có một dòng sông quê hương, dòng sông tuổi thơ. Không dưng mà nhạc sĩ Đynh Trầm Ca đã viết “Có một dòng sông chảy tràn trong trí nhớ / Nhà em bên lở nhà anh ở bên bồi”, họặc nhà thơ Tế Hanh cũng đã từng: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc / Nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Có lẽ sông Hồng sông Ninh sông Đuống đã làm nên sức bền của Đăng Nguyệt Anh, chân trời góc biển, lãng du thi ca, trống thúc cuộc đời, việc nước việc nhà, vượt qua thăng trầm dâu bể, ngày về trong thanh bình, chị đã hạnh phúc nâng niu một mái ấm gia đình. Gặp bạn quê hương chị lại nhớ về Sông Ninh “Qua ngày giá rét / Sông Ninh cài then / Mùa đông sập cửa / Xuân về chưa em”.

Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh là người có cái duyên giữa trời đất, đi nhiều, đọc nhiều, viết nhiều, sống nhiều nói ít nên nội lực văn chương thâm hậu, giàu những trải nghiệm, thái độ sống nghiêm túc. Những câu thơ đã chảy chiều trên sông Seine Paris, mơ hồ khói sóng, đã đưa chị vào nỗi nhớ nào đây “Thẫn thờ bên bến sông Seine / Tìm đâu bóng dáng thân quen thuở nào / Chiều buồn con sóng lao xao / Và nghe trong gió xạc xào lá phong”. Chị nhớ đấy nhưng nỗi nhớ chưa được gọi thành tên, nhưng chắc chắn trong đó có sông Ninh quê nhà, nhớ quê hương là thuộc tính của con người, một ngàn năm trước Tô Hiệu cũng đã từng “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Có một dòng sông đã chảy trong thơ chị, dòng sông mà nhân loại ước ao nhưng chẳng bao giờ đến được: “Thuyền trăng đậu bến sông Ngân / Sóng sao sóng sánh hay là sóng anh? / Để thuyền trăng phải chòng chành / Xin đừng nổi bão khuynh thành người ơi”. Sông Đông ở tận bên trời Nga mà đã chảy một chuyện tình vào thơ chị: “Ac-xi-nhi-a / Nàng chết rồi / Cái chết đau thương / Cái chết ngậm ngùi /Chiến tranh tội ác lớn nhất loài người / Gri-go-ri ôm xác người tình trong tay / Thảm thiết”. Sông Cầu, Sông Thương đã chảy ca dao, quan họ trong thơ chị: “Quai thao ở cuối sông Cầu / Liền anh phiêu dạt tận đầu sông Tương / Trời làm giăng mắc tơ vương / Bướm ong ríu rít trong vườn trúc mai”  và sau cùng Sông Ninh vẫn chảy mênh mông trong thơ chị “Ngày đi/ Sông hãy còn trinh / Nay về hát khúc huê tình tặng sông/ Tôi đi nam bắc tây đông / Vẫn da diết nhớ / Dòng sông quê nghèo” (bài Sông Ninh ơi).

Những con sông đã làm mềm mại, bền bỉ, lưu chảy ngôn từ trong thơ chị. Ở tập thơ mới này, lục bát của chị đã đạt đến thượng thừa, phát triển trên nền truyền thống, nhất là những cặp luc bát viêt về quê hương, xóm làng. Nếu Nguyễn Bính mang cái tình quê sâu nặng và Anh Thơ với cái cảnh quê quyến luyến thì Đặng Nguyệt Anh đã lồng ghép được cái cảnh quê trong tình quê hiện hữu, chị đã mang cái âm điệu của lục bát vào những câu thơ tự do có sức lay gợi, tôi đi lang thang tìm những dòng sông lại chạm phải một vỉa tầng chữ nghĩa rất riêng của chị: “Tháng năm ơi ở lại phút giây này / Để người về biếc với heo may / Nắng cứ lụa như thời con gái / Tóc cứ mềm và má cứ hây”.

“Người về biếc với heo may”, “Nắng cứ lụa như thời con gái”, những kết hợp từ rất riêng của Đăng Nguyệt Anh rất nhẹ nhàng mà gợi lắm. Chị thường ngắt câu lục bát xuống để làm cho hình thức thơ phong phú, câu thơ mạnh, no tròn những ý, nên câu thơ phương phi, đẹp, chị đang gõ nhịp cho ta đọc thơ, khi thì nhịp đi 2/4, khi thì chậm xuống 3/5, nói chung là lưu chuyển êm ái, xao xuyến. Tôi tâm đắc với lục bát của Đăng Nguyệt Anh và trân trọng muôn đời với lục bát Việt Nam vì đấy là nơi lưu giữ tâm hồn dân tộc. Ngày nay các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đến thăm Việt Nam hay đọc một câu trong Truyện Kiều thì dân ta thấy nhẹ lòng và cảm tình mặc dù người ấy trước đây là kẻ thù của dân tộc. Đăng Nguyệt Anh, người đàn bà làm thơ bằng trái tim nhân hậu, chị đến giữa chúng ta như một sứ giả kết nối thi ca, kết nối tâm hồn, êm ái ta vào một không gian tĩnh lặng, chị làm thơ là do trời sinh ra thế, mệnh trời, không phải nghề mà là nghiệp chung của mọi thi sĩ, không phải là nghề nên chị luôn tĩnh lặng không thường ra phía trước, không cạnh tranh gì với ai, không thể hiện mình, một tấm lòng thi ca thật cảm phục.

Tôi đã rông dài với thơ Đặng Nguyệt Anh nhưng vẫn chưa hết những gì muốn nói, chúc chị mọi sự an lành, giàu sức sáng tạo, vui chị nhé vì thơ, tình yêu, không khí sẽ không có tuổi, rất cần cho con người, chúc thơ chị ngày càng rất Đăng Nguyệt Anh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm