TIN TỨC

Có những dòng sông chảy trong thơ Đặng Nguyệt Anh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1053 lượt xem

XUÂN TRƯỜNG

Nhận từ tay nhà thơ Lê Thiếu Nhơn, tập thơ mới của chị Đặng Nguyệt Anh, tôi vui mừng và đọc ngay, bởi lẽ lâu nay không gặp chị vì lý do covid, hơn nữa chị đã vượt qua hai lần covid, và tôi cũng một lần, thế mà chị vẫn sáng tác không ngừng nghỉ, đấy là tín hiệu đáng mừng cho thơ, chị đã làm nên điều kỳ vĩ.

Lưu lạc trong tập “Thơ Lẻ” của chị tôi đã ngang qua những dòng sông nhờ con đò thi ca của chị, tôi theo bước chân lãng du của chị mà đi, khi từ ngọn cỏ đến cung trăng, khi từ cuối đất đến chân trời thăm thẳm, khi từ ổ rơm quê nhà đến bưng biền xa xôi, rồi những thị thành rộn rã, dù đi bất cứ nơi đâu chị vẫn luôn đau đáu với dòng sông quê hương “Ta về gối tóc vào sông / Nghe trên đồng bãi / mênh mông quê nhà / Con cò bay lã bay la / Bà ơi thương quá tiếng bà ru xưa” (bài Bà ơi thương quá) hoặc là “Tôi bềnh bồng trôi / Thơ ấu gọi về quá khứ /Bao nhiêu năm sông chẳng đổi dòng / Cứ giữ mãi cái gì rất cũ / Cho con nước lớn ròng / Suôt một đời chung thủy  / Ơi sông” (bài Về với sông), những câu thơ chảy nỗi nhớ mơ hồ từ một dòng sông dần dần đã lộ ra hiện thực, sông nhớ đã được gọi thành tên “Xưa con cháu chúa Thượng Ngàn / Mải mê đeo đuổi cung đàn túi thơ / Đầu trời cuối bể lơ ngơ / Lãng du lạc đến bên bờ sông Ninh / Mẹ cha nhân hậu ân tình / Cưu mang con / Được hóa sinh kiếp này”.

Rồi con sông Ninh đã chảy tuổi thơ chị lớn lên thành biển đời mênh mông, dâu bể, sóng cồn bắt đầu từ tuổi đôi mươi trăng tròn chị đã ba lô lên đường vượt Trường Sơn đến miền biên viễn, cùng với thế hệ chị một thế hệ dấn thân yêu đời, băng qua một hành trình đầy gian khổ hy sinh, khác với cố nhân ta xưa bồng con lên núi chờ chồng bây giờ các chị đã làm nên điểm nhấn của thời đại, chinh phục Trường Sơn mà ra trận tiền, mà sát cánh kề vai cùng nam giới đến kháng chiến thành công. Ở những tập thơ trước, với những câu thơ mang nặng đẻ đau trong rừng miền Đông, chị đã đưa chúng ta ngược về lịch sử mà tri ân sức chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam nói chung và Đăng Nguyệt Anh nói riêng, khiến phụ nữ thế giới phải ngưỡng mộ, ngả nón xin chào. Càng đi xa chị càng thấy về gần sông Ninh đã chảy, chị vào mộng du mà nhớ “Tưởng về uống nước sông Ninh / Vui sướng quá / Bổng giật mình tỉnh ra / Sông Ninh vẫn tít mù xa / Tôi thương tôi / Kẻ nhớ nhà / Mộng du”. Đã bao lần với sông Ninh mà chị chẳng bao giờ vơi nỗi nhớ. Đúng vậy mỗi một người trong chúng ta ai cũng có một dòng sông quê hương, dòng sông tuổi thơ. Không dưng mà nhạc sĩ Đynh Trầm Ca đã viết “Có một dòng sông chảy tràn trong trí nhớ / Nhà em bên lở nhà anh ở bên bồi”, họặc nhà thơ Tế Hanh cũng đã từng: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc / Nước gương trong soi tóc những hàng tre”. Có lẽ sông Hồng sông Ninh sông Đuống đã làm nên sức bền của Đăng Nguyệt Anh, chân trời góc biển, lãng du thi ca, trống thúc cuộc đời, việc nước việc nhà, vượt qua thăng trầm dâu bể, ngày về trong thanh bình, chị đã hạnh phúc nâng niu một mái ấm gia đình. Gặp bạn quê hương chị lại nhớ về Sông Ninh “Qua ngày giá rét / Sông Ninh cài then / Mùa đông sập cửa / Xuân về chưa em”.

Nhà thơ Đặng Nguyệt Anh là người có cái duyên giữa trời đất, đi nhiều, đọc nhiều, viết nhiều, sống nhiều nói ít nên nội lực văn chương thâm hậu, giàu những trải nghiệm, thái độ sống nghiêm túc. Những câu thơ đã chảy chiều trên sông Seine Paris, mơ hồ khói sóng, đã đưa chị vào nỗi nhớ nào đây “Thẫn thờ bên bến sông Seine / Tìm đâu bóng dáng thân quen thuở nào / Chiều buồn con sóng lao xao / Và nghe trong gió xạc xào lá phong”. Chị nhớ đấy nhưng nỗi nhớ chưa được gọi thành tên, nhưng chắc chắn trong đó có sông Ninh quê nhà, nhớ quê hương là thuộc tính của con người, một ngàn năm trước Tô Hiệu cũng đã từng “Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Có một dòng sông đã chảy trong thơ chị, dòng sông mà nhân loại ước ao nhưng chẳng bao giờ đến được: “Thuyền trăng đậu bến sông Ngân / Sóng sao sóng sánh hay là sóng anh? / Để thuyền trăng phải chòng chành / Xin đừng nổi bão khuynh thành người ơi”. Sông Đông ở tận bên trời Nga mà đã chảy một chuyện tình vào thơ chị: “Ac-xi-nhi-a / Nàng chết rồi / Cái chết đau thương / Cái chết ngậm ngùi /Chiến tranh tội ác lớn nhất loài người / Gri-go-ri ôm xác người tình trong tay / Thảm thiết”. Sông Cầu, Sông Thương đã chảy ca dao, quan họ trong thơ chị: “Quai thao ở cuối sông Cầu / Liền anh phiêu dạt tận đầu sông Tương / Trời làm giăng mắc tơ vương / Bướm ong ríu rít trong vườn trúc mai”  và sau cùng Sông Ninh vẫn chảy mênh mông trong thơ chị “Ngày đi/ Sông hãy còn trinh / Nay về hát khúc huê tình tặng sông/ Tôi đi nam bắc tây đông / Vẫn da diết nhớ / Dòng sông quê nghèo” (bài Sông Ninh ơi).

Những con sông đã làm mềm mại, bền bỉ, lưu chảy ngôn từ trong thơ chị. Ở tập thơ mới này, lục bát của chị đã đạt đến thượng thừa, phát triển trên nền truyền thống, nhất là những cặp luc bát viêt về quê hương, xóm làng. Nếu Nguyễn Bính mang cái tình quê sâu nặng và Anh Thơ với cái cảnh quê quyến luyến thì Đặng Nguyệt Anh đã lồng ghép được cái cảnh quê trong tình quê hiện hữu, chị đã mang cái âm điệu của lục bát vào những câu thơ tự do có sức lay gợi, tôi đi lang thang tìm những dòng sông lại chạm phải một vỉa tầng chữ nghĩa rất riêng của chị: “Tháng năm ơi ở lại phút giây này / Để người về biếc với heo may / Nắng cứ lụa như thời con gái / Tóc cứ mềm và má cứ hây”.

“Người về biếc với heo may”, “Nắng cứ lụa như thời con gái”, những kết hợp từ rất riêng của Đăng Nguyệt Anh rất nhẹ nhàng mà gợi lắm. Chị thường ngắt câu lục bát xuống để làm cho hình thức thơ phong phú, câu thơ mạnh, no tròn những ý, nên câu thơ phương phi, đẹp, chị đang gõ nhịp cho ta đọc thơ, khi thì nhịp đi 2/4, khi thì chậm xuống 3/5, nói chung là lưu chuyển êm ái, xao xuyến. Tôi tâm đắc với lục bát của Đăng Nguyệt Anh và trân trọng muôn đời với lục bát Việt Nam vì đấy là nơi lưu giữ tâm hồn dân tộc. Ngày nay các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đến thăm Việt Nam hay đọc một câu trong Truyện Kiều thì dân ta thấy nhẹ lòng và cảm tình mặc dù người ấy trước đây là kẻ thù của dân tộc. Đăng Nguyệt Anh, người đàn bà làm thơ bằng trái tim nhân hậu, chị đến giữa chúng ta như một sứ giả kết nối thi ca, kết nối tâm hồn, êm ái ta vào một không gian tĩnh lặng, chị làm thơ là do trời sinh ra thế, mệnh trời, không phải nghề mà là nghiệp chung của mọi thi sĩ, không phải là nghề nên chị luôn tĩnh lặng không thường ra phía trước, không cạnh tranh gì với ai, không thể hiện mình, một tấm lòng thi ca thật cảm phục.

Tôi đã rông dài với thơ Đặng Nguyệt Anh nhưng vẫn chưa hết những gì muốn nói, chúc chị mọi sự an lành, giàu sức sáng tạo, vui chị nhé vì thơ, tình yêu, không khí sẽ không có tuổi, rất cần cho con người, chúc thơ chị ngày càng rất Đăng Nguyệt Anh.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tìm hiểu lý luận phê bình văn học miền nam 1954-1975
Đọc chuyên luận Lý luận - Phê bình văn học miền Nam 1954-1975: Tiếp nhận & Ứng dụng của PGS.TS Trần Hoài Anh
Xem thêm
PGS.TS Ngô Minh Oanh - phu chữ âm thầm
Bài viết của nhà thơ Ngô Đức Hành
Xem thêm
Đinh Nho Tuấn, trao em một mảnh vô thường
Ngô Đức Hành đọc tập thơ “Năm ngón chưa đặt tên”, NXB Hội Nhà văn năm 2024 của nhà thơ Đinh Nho Tuấn
Xem thêm
Miên man Xuân Lợi
(Đọc tập thơ Nghiêng phía miên man của Xuân Lợi, NXB Hội Nhà Văn, 2024)
Xem thêm
Trăng Lạnh” và một trái tim ấm áp
“Trăng lạnh”, tập thơ mới nhất của nhà thơ Trần Thế Tuyển đến với tôi như một một món quà tặng của người anh “đồng đội”, như một sự chia sẻ cảm xúc của người yêu văn thơ, để cùng ngân nga lọc tìm những câu thơ đẹp, để có những khoảnh khắc lắng đọng chiêm nghiệm nhân gian thế sự, để càng trân quý hơn cuộc sống, tình yêu và sự thanh bình…
Xem thêm
“Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”
Nhà phê bình văn học là người có tâm hồn giao cảm mãnh liệt với từng lời văn, con chữ và những giai điệu du dương của thơ ca. Họ đã có những cảm nghiệm sâu sắc giữa thơ văn và đời mình. Với họ, mỗi tác phẩm văn học không chỉ là một tư tưởng cần được khám phá mà còn là một thế giới sống động, nơi những dòng chữ biết thủ thỉ cùng tâm hồn.
Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm