TIN TỨC

Đêm của âm nhạc

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-07-10 23:03:38
mail facebook google pos stwis
941 lượt xem

Trương Thị Mai Hương dịch

Trích tiểu thuyết “My Antonia” của Willa Cather

Willa Sibert Cather (1873 – 1947) là một nhà văn người Mĩ nổi tiếng rộng rãi với những tiểu thuyết viết về vùng biên giới cao nguyên rộng lớn ở miền trung Bắc Mĩ. Bà được coi là một trong những người chép sử biên niên tài năng nhất về cuộc sống của những người tiên phong khai hoang của thế kỉ 20. Tác phẩm hay nhất của bà là My Ántonia (1918).

Nguồn: online-literature.com​

Mùa đông ở lại những thị trấn miền quê rất lâu; nó cứ nấn ná mãi tới khi đã trở nên nhạt nhẽo và tồi tàn, cũ rích và ảm đạm. Trên các nông trại, thời tiết là một vấn đề cực kì lớn và công việc của cánh đàn ông vẫn phải diễn ra trong lúc nước đã chảy thành suối bên dưới lớp băng. Nhưng ở Black Hawk, quang cảnh cuộc sống của con người trông quắt queo và co cụm lại, đông cứng dưới gốc rạ chỏng chơ.

Suốt tháng một và tháng hai, tôi ra sông với những đứa trẻ nhà Harling vào những đêm trời trong trẻo; chúng tôi trượt băng tới cù lao lớn và đốt lửa trên bãi cát đóng băng. Nhưng tới tháng ba băng trở nên gồ ghề và không chắc chắn, còn tuyết trên những vách núi ven sông nhìn thật ảm đạm và thê lương. Tôi chán đi học, chán mớ quần áo mùa đông, những con phố đường đất lún sâu, những đụn tuyết bẩn thỉu và những đống tro đã nằm trong sân nhà quá lâu rồi. Chỉ một xáo động duy nhất trong trạng thái đơn điệu u ám trong tháng đó: khi d’Arnault Mù, người nghệ sĩ dương cầm da đen đến thị trấn. Ông ấy tổ chức một buổi hòa nhạc ở nhà hát opera vào tối thứ hai, rồi cùng người quản lí của mình ở lại thứ bảy và chủ nhật ở khách sạn đầy đủ tiện nghi của chúng tôi. Bà Harling biết ông d’Arnault nhiều năm rồi. Bà bảo Antonia nên đi gặp Tiny vào tối thứ bảy đó vì chắc chắn là họ sẽ chơi nhạc ở Nhà Của Các Chàng Trai.

Tối thứ bảy, sau khi ăn tối, tôi chạy vào trung tâm đến khách sạn và lẳng lặng lẻn vào khách sảnh. Tất cả ghế đều có người ngồi hết rồi, và không khí có mùi xì-gà dễ chịu. Khách sảnh từng có hai phòng và sàn nhà võng xuống ở chỗ bức vách ngăn đã bị dỡ bỏ. Gió bên ngoài làm cho tấm thảm trải sàn dài gợn sóng. Một cái bếp lò đốt bằng than đá chiếu sáng cả hai đầu căn phòng và chiếc đàn piano cánh để mở ở giữa.

Đêm hôm đó trong ngồi nhà ấy có một bầu không khí tự do vì bà Gardener đã đi Omaha trong một tuần. Johnnie đã uống với khách tới khi thần trí ông ấy không còn tỉnh táo nữa. Bà Gardener là người điều hành việc kinh doanh và trông nom mọi thứ. Chồng bà đứng ở quầy lễ tân đón khách tới. Ông ấy là người rất được mọi người yêu mến nhưng lại không phải là người biết quản lí.

Phải công nhận bà Gardener là người phụ nữ mặc đẹp nhất ở Black Hawk, cưỡi con ngựa tốt nhất, có một cỗ xe hai bánh sang trọng và một chiếc xe trượt tuyết nhỏ hai màu trắng vàng. Bà ấy dường như khá thờ ơ với tài sản của mình, không quan tâm đến chúng được bằng một nửa bạn bè mình. Bà ấy cao ráo, da ngăm ngăm, nghiêm khắc với nét gì đó giống như người Ấn Độ trong sự bất động cứng nhắc trên gương mặt. Tính bà ấy lạnh lùng và rất ít nói. Khách tới ở nhà bà ấy cảm thấy họ đang nhận ân huệ chứ không phải là ban cho. Ngay cả những vị lữ khách thông minh nhất cũng trở nên im lặng khi bà Gardener đứng lại nói chuyện với họ chốc lát. Khách quen của khách sạn chia thành hai tầng lớp: những người đã nhìn thấy kim cương của bà Gardener và những người chưa.

Lúc tôi lẻn vào phòng khách, Anson Kirkpatrick, nhân viên của Marshall Field đang ngồi ở đàn piano chơi những giai điệu từ một vở nhạc kịch hài lúc đó đang diễn ở Chicago. Anh ta là một người đàn ông Ireland nhỏ thó bảnh bao, rỗng tuếch và vô duyên như một con khỉ, đi tới đâu cũng có bạn, tới bến cảng nào cũng có tình nhân như thủy thủ vậy. Tôi không biết hết những người ngồi trong phòng, nhưng tôi nhận ra một người bán hàng nội thất từ thành phố Kansas, một người bán thuốc, và Willy O’Reilly, người đi bán đồ trang sức và nhạc cụ. Mọi người toàn nói chuyện về khách sạn nào tốt khách sạn nào tệ, diễn viên và những tác phẩm âm nhạc vĩ đại. Tôi biết là bà Gardener đã đi Omaha để nghe Booth và Barrett sắp chơi nhạc ở đó vào tuần sau, và rằng Mary Anderson đang thành công lớn với vở ‘Câu chuyện Mùa đông’ ở London.

Cửa văn phòng mở ra và Johnie Gardener bước vào chỉ đường cho d'Arnault Mù – ông ấy không bao giờ chịu để dẫn đi. Ông ấy là con lai có vóc người đồ sộ, chân ngắn, và ông ấy gõ lên mặt sàn trước mặt mình bằng cây gậy đầu bịt vàng. Khuôn mặt vàng bủng của ông ấy ngước lên trong ánh sáng với một nụ cười ngoác mang tai khoe hàm răng trắng, còn đôi mí mắt quắt queo, mỏng như giấy của ông nằm bất động che đi đôi mắt mù.

“Chào các quý ông. Không có phụ nữ ở đây sao? Chúng ta sẽ chơi một chút nhạc nhỉ? Vị nào đó tối nay sẽ chơi cho tôi nghe chứ?” Đó là giọng nói hòa nhã, dịu dàng của người da đen giống như những giọng nói tôi nhớ được từ hồi còn thơ bé trong đó có vẻ phục tùng dễ bảo. Ông ấy cũng có cái đầu của người da đen nữa; gần như không giống đầu chút nào; phía sau hai tai không có gì hết ngoài những nếp gấp trên cổ bên dưới mớ tóc dày và quăn cắt cụt ngủn. Hẳn ông ấy đã trông thật đáng ghét nếu khuôn mặt ông không dễ thương và vui vẻ đến vậy. Đó là khuôn mặt vui vẻ nhất tôi từng thấy kể từ hồi rời Virginia.

Ông dò dẫm tìm đường đi thẳng đến cây đàn. Lúc ông ngồi xuống, tôi để ý thấy vẻ nhu nhược, nhút nhát mà bà Harling đã bảo. Trong khi ngồi hay đứng yên, ông ấy lắc lư không ngừng như một món đồ chơi bập bênh. Khi đánh đàn, ông ấy đu đưa theo nhạc, còn khi không chơi thì cơ thể ông ấy cứ giữ nhịp chuyển động này như một cái cối xay rỗng tiếp tục xay vậy. Ông ấy tìm thấy mấy cái bàn đạp và đạp thử, lướt đôi tay vàng bủng qua lại trên mặt phím đàn vài lần, thử thang âm, rồi quay sang mọi người.

“Bà ấy nói đúng các vị ạ. Không hề có gì xảy ra kể từ lần cuối tôi ở đây. Bà Gardener luôn cho người lên dây chiếc đàn này trước khi tôi tới. Giờ thì các quý ông, tôi mong là tất cả các vị đều có giọng hát tuyệt vời. Có vẻ là tối nay chúng ta có thể sẽ hát vài bài hát thuộc địa xưa cũ hay ho đấy.”

Cánh đàn ông tụ tập lại xung quanh khi ông bắt đầu chơi bản ‘Quê nhà Kentucky của tôi.’[1] Họ hát các giai điệu của người da đen liên tiếp nhau trong khi người nghệ sĩ ngồi lắc lư, đầu ông ấy ngửa ra sau, khuôn mặt vàng vọt ngẩng lên, đôi mí mắt nhăn nheo không bao giờ rung động.

Ông ấy được sinh ra ở miền cực nam xa xôi, ở đồn điền d’Arnault, nơi mà trụ cột của chế độ nô lệ vẫn còn khăng khăng níu giữ. Lúc được ba tuần tuổi, ông mắc một chứng bệnh khiến mình bị mù hoàn toàn. Ngay khi ông đủ lớn để tự ngồi và lẫm chẫm bước đi, một tai ách khác về cử động thần kinh của cơ thể xuất hiện rõ ràng. Mẹ ông, một cô hầu gái da đen đẫy đà làm việc giặt giũ cho nhà d’Arnault, kết luận rằng đứa con mù của mình có gì đó ‘không ổn trong đầu, và thế là bà ấy xấu hổ vì ông. Bà ấy hết lòng yêu thương ông, nhưng ông xấu xí với đôi mắt nhăn nheo và cái kiểu “bồn chồn” tới mức bà giấu ông đi không cho người khác nhìn thấy. Tất cả những món cao lương mĩ vị bà mang từ nhà lớn xuống là dành cho đứa con mù, bà ấy đánh đập những đứa con khác của mình bất cứ khi nào thấy chúng chọc ghẹo ông hay cố giật lấy cái xương gà từ tay ông. Ông biết nói sớm, nhớ mọi thứ trong đầu và người mẹ nói là ông ‘không hẳn đã không ổn.’ Bà đặt tên ông là Samson vì ông bị mù, nhưng ở đồn điền ông được gọi là ‘đứa con hồn nhiên của Martha da vàng.’ Ông dễ bảo và biêt tuân phục, nhưng tới năm lên sáu thì ông bắt đầu chạy ra khỏi nhà chơi, bao giờ cũng chọn một hướng duy nhất. Ông dò đường qua đám hoa tử đinh hương, men theo hàng rào cây hoàng dương lên cánh nam của nhà lớn, nơi tiểu thư Nellie d’Arnault sáng sáng lại tập đàn piano. Việc này làm mẹ ông tức giận hơn bất cứ điều gì khác ông có thể làm; bà ấy xấu hổ vì vẻ ngoài xấu xí của ông tới nỗi không thể chịu được khi có người da trắng nhìn thấy ông. Cứ khi nào bắt được ông chuồn ra khỏi nhà là bà ấy đánh ông tới tấp bằng roi không thương xót và cho ông biết những điều đáng sợ mà ngài d’Arnault già sẽ làm với ông nếu có bao giờ thấy ông đến gần nhà lớn. Nhưng lần tiếp theo Samson có cơ hội là ông lại chạy đi. Nếu tiểu thư d'Arnault ngừng tập một chút và đi tới cửa sổ thì cô ấy thấy đứa bé da đen nhỏ thó gớm ghiếc này, người mặc một mảnh vải gai thô đứng trong khoảng trống những hàng thục quỳ, cơ thể nó đu đưa tự động, khuôn mặt của kẻ mù lòa ngước lên hướng về mặt trời và mang biểu cảm sung sướng mê li đến ngu ngốc. Cô ấy thường muốn bảo Martha là đứa trẻ này phải được giữ trong nhà, nhưng không hiểu sao kí ức về khuôn mặt hạnh phúc, ngớ ngẩn của ông làm cô nản lòng. Cô nhớ rằng thính giác gần như là tất cả những gì ông có được – dù cô không nghĩ ra được là có thể ông có nó nhiều hơn những đứa trẻ khác.

Một ngày Samson đang đứng như thế trong khi tiểu thư Nellie đánh đàn cho giáo viên của mình nghe. Cửa sổ thì để mở. Ông nghe thấy tiếng họ đứng dậy khỏi cây đàn, nói chuyện một lát rồi rời khỏi phòng. Ông nghe thấy cánh cửa đóng lại sau lưng họ. Ông len lén tới cửa sổ trước và thò đầu vào: không có ai trong đó hết. Bao giờ ông cũng có thể phát hiện ra sự hiện diện của bất kì ai trong phòng. Ông đặt một chân lên bệ cửa sổ và ngồi giạng chân trên đó.

Mẹ ông cứ nhắc tới nhắc lui là nếu ông chủ phát hiện ra ông đang “xía vào chuyện của người khác” thì ông ta sẽ mang ông đem cho con chó ngao Anh. Có lần Samson đã tới chuồng của nó quá gần và cảm nhận được hơi thở khủng khiếp của nó trên mặt mình. Ông nghĩ tới chuyện đó, nhưng lại rút chân kia lên.

Ông tìm đường tới Vật đó trong bóng tối, tới miệng của nó. Ông chạm nhẹ vào và nó trả lời một cách dịu dàng và ân cần. Rồi ông bắt đầu sờ khắp cây đàn, lướt đầu ngón tay dọc theo thân bên trơn nhẵn, ôm lấy mấy cái chân chạm trổ, cố hình dung ra hình dáng và kích thước của nó, của khoảng không gian nó chiếm lấy trong cảnh tối tăm nguyên thủy. Nó lạnh lẽo và cứng ngắc không giống thứ gì hết trong vũ trụ tối tăm của ông hết. Ông trở lại miệng đàn, bắt đầu ở một đầu phím đàn và mò mẫm ấn xuống tạo nên âm thanh như tiếng sấm động trầm ổn xa hết mức có thể. Dường như ông biết được rằng phải làm vậy bằng ngón tay chứ không phải với nắm tay hay bàn chân. Ông tiếp cận loại nhạc cụ được con người chế tạo công phu này chỉ bằng bản năng và ôm chặt lấy nó, như thể ông ấy biết nó sẽ gắn chặt vào cuộc đời mình và khiến ông trở thành một con người vĩ đại. Sau khi đã thử qua tất cả các phím, ông bắt đầu đánh những đoạn nhạc mà tiểu thư Nellie vẫn tập, những đoạn nhạc vốn đã là của ông rồi, chúng nằm bên dưới mẩu xương sọ nhỏ xíu hình nón định rõ là lòng khao khát của sinh vật sống.

Cửa mở, tiểu thư Nellie và giáo viên dạy nhạc của cô đứng đằng sau, nhưng Samson mù lòa vốn rất nhạy cảm với sự hiện hữu của người khác lại không hề biết họ ở đó. Ông đang nghiên cứu những âm thanh đã nằm sẵn sàng ở đó trên những phím đàn lớn nhỏ khác nhau. Khi ông dừng lại một chút vì âm thanh bị sai và ông muốn bấm một nốt khác thì tiểu thư Nellie dịu dàng cất tiếng. Ông quay cuồng trong kinh hoàng, nhảy tới trước trong bóng tối, đập đầu vào ô cửa sổ để mở rồi hét lên và ngã xuống sàn với máu chảy ròng ròng. Ông bị thứ mà mẹ ông gọi là ngất. Bác sĩ tới và cho ông một liều thuốc phiện.

Khi Samson khỏe lại, cô chủ nhỏ dẫn ông trở lại cây đàn. Nhiều giáo viên đã thử qua với ông. Họ phát hiện ra ông có khả năng thẩm âm chính xác và một trí nhớ khác thường. Dù còn rất nhỏ nhưng ông đã có thể lặp lại tàm tạm bất kì tác phẩm nào nghe được. Dù có đánh sai bao nhiêu nốt ông vẫn không bao giờ mất tập trung vào đoạn nhạc, ông luôn tìm ra được điều cốt lõi bằng cách thức không theo quy tắc và đáng kinh ngạc. Ông làm giáo viên của mình mệt lử. Ông không bao giờ học như người khác, không bao giờ học được bất kì kết thúc nào. Ông luôn là một thần đồng người da đen chơi đàn sai chuẩn một cách kì diệu. Nếu là về chơi piano thì có lẽ như thế là tệ hại, nhưng về mặt âm nhạc thì đó là thứ có thật được truyền sức sống bởi khả năng cảm nhận được nhịp điệu, thứ mạnh mẽ hơn các giác quan thể chất khác của ông – nó không chỉ lấp đầy tâm trí tăm tối của ông mà còn không ngừng làm thể xác ông lo ngại. Nghe và xem ông chơi đàn là nhìn thấy một người da đen hạnh phúc theo kiểu chỉ có người da đen mới có thể hiểu được. Cứ như thể toàn bộ các cảm giác dễ chịu có thể có ở những sinh vật làm bằng máu thịt đều chất chồng trên những phím trắng và đen đó, và ông đang nhìn chúng đầy thèm muốn, làm chúng chảy nhỏ giọt qua kẽ ngón tay mình.

Đang chơi một điệu van nhanh thì giữa chừng đột nhiên d’Arnault bắt đầu chơi chậm lại và quay sang một người đứng cạnh mình thì thầm rằng, “Có ai đó đang nhảy ở đây.” Ông hất cái đầu tròn của mình hướng về phía phòng ăn. “Tôi nghe thấy tiếng bàn chân nhỏ nhắn, chắc là của con gái rồi.”

Anson Kirkpatrick leo lên một chiếc ghế và hé mắt nhìn qua thanh đố cửa. Ông ta nhảy xuống, giật mở cửa thật mạnh và chạy tới phòng ăn. Tiny, Lena, Antonia và Mary Dusak đang nhảy điệu van ở giữa phòng. Họ tách nhau ra và vừa bỏ chạy về phía bếp vừa cười khúc khích.

Kirkpatrick túm được khuỷu tay Tiny. “Có chuyện gì với mấy cô thế? Khiêu vũ một mình ở đây trong khi có cả một phòng đầy đàn ông cô đơn ở phía bên kia bức tường ngăn cơ đấy! Giới thiệu tôi với các bạn cô đi Tiny.”

Các cô gái vẫn đang cười và cố gắng trốn đi. Tiny trông hoảng hốt. “Bà Gardener sẽ không thích thế đâu,” chị ta chống chế. “Bà ấy sẽ phát điên lên nếu các anh tới đây nhảy với chúng tôi.”

“Bà Gardener đang ở Omaha đấy cô. Giờ thì cô là Lena phải không? Còn cô là Tony và cô là Mary. Các cô đã hết do dự chưa?”

O’Reilly và những người khác bắt đầu chất ghế lên bàn. Johnnie Gardener từ phòng làm việc của mình chạy vào.

“Từ từ đã các chàng trai!” ông ta van nài họ. “Các vị sẽ đánh thức bà bếp và sẽ có chuyện không hay xảy ra cho tôi mất thôi. Bà ấy không nghe thấy tiếng nhạc đâu, nhưng bà ấy sẽ xuống ngay nếu có bất kì chuyển động nào trong phòng ăn đấy.”

“Ôi trời, ông lo cái gì chứ Johnnie? Đuổi việc bà bếp và đánh điện cho Molly kiếm người khác. Thôi nào, sẽ không ai kể ra đâu.”

Johnnie lắc đầu. “Có một sự thật đó là nếu tôi uống một li ở Black Hawk thì Molly ở Omaha biết ngay!” ông ta nói vẻ bộc bạch.

Khách khứa cười to và vỗ vỗ lên vai ông. “Ôi dào, bọn tôi sẽ lo chuyện với Molly. Tự tin lên đi Johnnie.” Tất nhiên Molly là tên của bà Gardener. Dòng chữ ‘Molly Bawn’ lớn được sơn màu xanh dương hai bên thân màu trắng sáng chói của chiếc xe chuyển thức ăn trong khách sạn, ‘Molly’ được khắc bên trong nhẫn của Johnnie và trên cái hộp đựng đồng hồ của ông ta – đảm bảo là trên trái tim ông ta nữa. Đó là một người đàn ông nhỏ thó trìu mến và ông ta nghĩ rằng vợ mình là một người phụ nữ tuyệt vời; ông ta biết rằng không có bà ấy mình sẽ chẳng hơn gì một chân tiếp tân trong khách sạn của ai đó.

Nghe Kirkpatrick nói xong, d’Arnault vươn mình choán lấy cả chiếc đàn và bắt đầu tấu nên một điệu nhạc khiêu vũ sôi động trong khi mồ hôi lấp lánh trên mái tóc ngắn giống như len và trên khuôn mặt ngước lên của mình. Nhìn ông giống như một vị thần niềm vui nào đó của Phi châu sáng long lanh, cơ thể tràn trề thứ nhựa sống hoang dã, mạnh mẽ. Cứ khi nào những người khiêu vũ dừng lại để đổi bạn nhảy hay lấy hơi là ông lại cất tiếng oang oang, “Ai đang không giữ lời với tôi đấy? Tôi cá là một anh chàng thành phố đây mà! Giờ thì các cô không định để sàn nhà nguội đi đấy chứ?”

Mới đầu Antonia có vẻ hoảng sợ và cứ nhìn Lena và Tiny qua vai Willy O’Reilly vẻ dò hỏi. Tiny Soderball có vóc người thon thả với đôi bàn chân nhỏ nhắn hoạt bát và phần mắt cá chân xinh xắn – chị ta mặc váy rất ngắn. Chị ta nhanh miệng, chuyển động nhẹ nhàng và cư xử khéo léo hơn mấy cô gái kia. Mary Dusak có khuôn mặt to bè và rám nắng có hơi điểm vết thâm do đậu mùa, nhưng nhìn chung là xinh xắn. Chị ta có mái tóc màu hạt dẻ quấn thành lọn tuyệt đẹp; trán thấp và mịn màng cùng với đôi mắt sẫm màu uy nghi nhìn thế giới vẻ bàng quan và gan dạ. Trông chị ta táo bạo, tháo vát và cẩu thả, mà đúng là thế thật. Họ đều là những cô gái xinh đẹp, nước da tươi tắn vì lớn lên ở vùng thôn dã, và trong mắt họ có vẻ rực rỡ mà chao ôi, không phải dùng phép ẩn dụ chứ nó được gọi là ‘ánh sáng tuổi trẻ.’

D’Arnault chơi tới khi người quản lí của ông tới đóng cây đàn lại. Trước khi rời đi, ông cho chúng tôi xem chiếc đồng hồ bằng vàng điểm giờ và một chiếc nhẫn hoàng ngọc được một nhà quý tộc Nga nào đó tặng vì hài lòng với những giai điệu của người da đen nghe d’Arnault chơi ở New Orleans. Cuối cùng ông ấy gõ gậy tìm đường lên lầu sau khi cúi chào mọi người vẻ ngoan ngoãn và hạnh phúc. Tôi đi về nhà với Antonia. Chúng tôi phấn khích tới mức sợ phải đi ngủ. Chúng tôi nấn ná một lúc lâu ở cổng nhà Harling, thì thầm nói chuyện trong cái lạnh tới khi cơn bồn chồn chậm chạp tan biến.

 


[1] ‘My old Kentucky Home,’ một bản ballad chống lại chế độ nô lệ được sáng tác vào năm 1852.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Quyền năng của người lớn” – Truyện ngắn Nguyễn Bình An
Giấc ngủ trưa của tôi bị phá tan bằng một thứ âm thanh làm tôi giật thót mình - tiếng mẹ chửi con.Mày đi khỏi nhà tao! Tại sao mày uống ca cà phê mà không dẹp? Đợi tao dẹp ha gì? Tao là mẹ mày hay ở đợ cho mày? Nội dung câu chửi cũng không đến mức khủng khiếp. Nhưng cái giọng chửi thì đáng kinh. Nó the thé, hoằm hoặm. Đó là tiếng chửi mà Bích trút xuống đứa con trai mới tám tuổi của mình - thằng Long. Long ngồi thu mình lại sát góc nhà. Hai tay như đang cố bịt tai. Hai chân dạng, lưng ngả ra sau tìm điểm tựa nơi vách nhà. Mắt mở thao láo, vô hồn. Dù cây cần nước để sống. Nhưng Long như một cây non quằn quại dưới làn nước mạnh liên tục dội tạt vào. Nó oặt mình đi. Bà mẹ trẻ đang dạy con hay đang trút hằn học trong người? Dũng - chồng Bích - đi làm gần hai tháng nay chưa thấy gửi tiền về. Những cuộc điện thoại của Bích gọi đi trong nước mắt nhưng Dũng luôn đáp lại bằng sự hững hờ.
Xem thêm
Nước cuốn bông tràm – truyện ngắn Chinh Văn
Lý do trở về cửa biển nầy của chị là gì?. Mỏi gối chồn chân hay hương tàn sắc nhạt?, nhớ cố hương hay lương tâm lên tiếng?, chính chị cũng không trả lời thỏa đáng. Cũng có thể là tất cả những cái đó thôi thúc chị về quê. Chỉ biết rằng sau những đau khổ chất chồng, sau những tháng ngày bon chen ở đất Sài Gòn, nay chị về vùng U Minh Hạ nầy nương nhờ nhà vợ chồng đứa cháu để sống qua ngày với nghề buôn bán cá khô.
Xem thêm
Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc - Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Chiều ở Loa Thành lặng như tờ giấy đã ố màu. Không tiếng người. Không bóng ai. Chỉ gió thổi cỏ lau nghiêng ngả, cuốn theo mùi đất xưa lẫn với mùi tro tàn cổ tích.
Xem thêm
Lời hứa - Truyện cực ngắn của Lê Thanh Huyền
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 41 tháng 10/2025.
Xem thêm
Ký ức tuổi thơ tôi – Truyện ngắn Vũ Mạnh Định
Có một miền quê nằm bên dòng Hoàng Long lặng lẽ, nơi triền bãi xanh mướt ôm lấy con nước hiền hòa, nơi mỗi chiều vang lên tiếng chuông chùa Thông Linh Tự và mỗi mùa hội đình lại rộn ràng cờ hoa rợp ngõ. Ấy là quê tôi - thôn Thần Thiệu nhỏ bé nhưng chan chứa tình người, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng trống hội, bằng mùi khói rơm chiều và những câu chuyện lịch sử vọng về từ ngàn xưa.
Xem thêm
Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
“Máu đỏ da vàng” – truyện ngắn của Lại Văn Long không chỉ là bi kịch của một người đàn bà trong vòng xoáy hậu chiến, mà còn là bản hòa ca của lòng nhân và tinh thần hòa giải dân tộc.
Xem thêm
Trạm xá - Truyện Võ Đào Phương Trâm
Đồng hồ bước qua 7 giờ tối, bên ngoài khuôn viên Trạm xá tối om như mực, bác sĩ Nguyên vẫn còn miệt mài với chồng hồ sơ bệnh án, thỉnh thoảng, anh khẽ ngước mặt nhìn ra khung cửa, từng đợt gió thổi nhẹ mang theo chút mùi hương hoa rừng.
Xem thêm
Bông hoa của bản – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Tiếng khóc thút thít của Mai vọng từ phía buồng lại, xóa tan sự tĩnh lặng của đêm. Páo ngồi bên bếp, nồi nước đang sôi ùng ục bốc khói, tay Páo cầm thanh củi cời những viên than hồng rực, ánh mắt vô định nhìn những ngọn lửa bập bùng cháy cũng như lòng Páo lúc này đang không yên. Páo muốn đi vào trong phòng Mai, nói với Mai rằng hãy đứng dậy và bỏ đi cùng anh. Hãy bỏ lại tất cả cuộc sống hiện tại để đến một nơi khác bắt đầu cuộc sống mới như đôi chim cu tự xây tổ mới cho mình, như đôi hoẵng chạy vào rừng sâu sống cuộc sống yên bình... Từ nhỏ Páo đã chứng kiến Mai khổ quá rồi, giờ nếu tiếp tục để Mai chịu khổ hơn nữa anh thấy mình càng vô dụng như khúc gỗ dưới sàn nhà, như cây lá han trong rừng.
Xem thêm
Vùng đất hứa -Truyện Đông Sơn Lữ Khách
Vùng đất hứa – giấc mơ của biết bao người ở một phương trời xa xôi. Nhưng để chạm tới giấc mơ ấy, họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu và sinh mạng. Câu chuyện này được viết để nhắc rằng: Hạnh phúc thật sự không nằm nơi đất khách, mà ở chính quê hương, nơi có tình thân và vòng tay chờ đợi.
Xem thêm
Kịch bản hoàn hảo – Truyện Miên Tình
Đây rồi, cung điện Potala hiện ra như một huyền thoại hóa đá, đứng sững trên đỉnh núi Hồng Sơn, giống như một bài thơ viết bằng gió, bằng tuyết và bằng máu của thời gian. Mái ngói đỏ sậm, tường trắng ngà, tầng tầng lớp lớp như những lớp ký ức quyện vào nhau không thể bóc tách. Cô bước chậm từng bậc thang lên, mỗi bước như dấn thêm vào một thế giới không dành cho người vội vã, từng phút giây đều như chờ đợi giống như cô. Trái tim đập chậm lại, chẳng phải vì độ cao, mà vì một cảm giác vô danh của sự u buồn thánh thiện.
Xem thêm
Như là giấc mơ - Truyện ngắn Huỳnh Ngọc Lan
Nguyên nhà giáo, nhà văn Huỳnh Ngọc Lan sinh năm 1952 quê quán ở Huế nhưng sinh ra và lớn lên ở Vinh, bởi ba chị đi tập kết gặp mẹ chị ở Nghệ An. Thời kỳ Đế quốc Mỹ ném bom khốc liệt bất kể ngày đêm từ Vĩnh Linh đến Quảng Bình rồi Hà Tĩnh và Nghệ An. Lúc này chị đang theo học Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên ngành hóa. Thật đau thương khôn xiết, khi Mẹ và ba người em của chị chết trong một trận bom vùi giữa đêm khuya; sau ngày đất nước thống nhất, chị theo ba về ở Huế quê nội.
Xem thêm
Dưới bóng núi – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Mùa mưa ở vùng biên như một lời thách thức của thiên nhiên. Những con đường mòn dẫn vào bản bỗng hóa thành dải bùn đặc quánh, trơn như mỡ. Mây sà xuống tận mặt người, núi rừng hùng vĩ, hoang dại, đẹp đến nghẹt thở nhưng cũng dữ dằn không kém. Con đường này Khương đã thuộc đến từng khúc cua, từng con dốc và anh biết chỉ cần lỡ tay là sẽ lao xuống vực sâu hun hút. Vượt qua những khó khăn ấy, bản Khe Nặm hiện ra như nốt nhạc bình yên giữa bản giao hưởng dữ dội của núi rừng.
Xem thêm
Bàn tay vịn - Truyện ngắn của Hội An
Truyện ngắn in ở số 153 tạp chí Văn nghệ TP. HCM
Xem thêm
Bố vợ - truyện cực ngắn của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 40 tháng 9 năm 2025.
Xem thêm
Chuông chùa Chân Giáo – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Xem thêm
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Xem thêm
Hoàng hôn trên bờ sông Main - Truyện ngắn của Trần Thủy
Tôi gặp em vào buổi chiều hôm ấy. Khi ánh mặt trời thoắt vàng như mật choàng ngập trên từng ngôi nhà rồi bất chợt lóng lánh màu hổ phách, đổ sang sắc rượu chát thành một vệt dài trầm mặc phủ kín đôi bờ sông Main.
Xem thêm
Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020
Xem thêm
Bay trong gió núi - Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Tôi nằm đây nghe tiếng lục lạc kêu. Thứ âm thanh đinh đinh đang đang mỗi buổi chiều người ta lùa đàn bò đi qua khiến cho linh hồn tôi cảm thấy thật rộn ràng, vui tươi và khoan khoái lạ kỳ. Cái cảm giác này trước đây chưa bao giờ tôi có được. Giờ thì, tôi đã cảm nhận thấy thật rõ ràng thứ âm thanh đó, cùng với hương vị nồng nồng âm ấm của đất, mùi chan chát mằn mặn của đá, mùi thơm thoang thoảng của cỏ voi, mùi ngòn ngọt chua chua của những bông hoa tam giác mạch ai đó làm vương hạt trên nấm mộ tôi.
Xem thêm