TIN TỨC

Điển cố trong thơ Xuân Diệu trước năm 1945

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
2076 lượt xem

Xuân Diệu được Hoài Thanh nhận định “mới nhất trong các nhà Thơ Mới”. Thơ Xuân Diệu là một sự lạ hóa về mặt ngôn từ với những cách tân độc đáo mới lạ bởi những ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng siêu thực của lối thơ Pháp. Tuy vậy, những quán tính của thơ cũ vẫn còn trong lối viết của ông. Điển tích điển cố là một trong những thủ pháp nghệ thuật được ông vận dụng sáng tạo và có chủ đích.

Nhà thơ Xuân Diệu (ảnh Internet)

1. Nói đến thơ ca là nói đến những đặc trưng của tính hình tượng, đa nghĩa và hàm súc… Điều đó cho phép điển cố được dẫn dụng như một phương thức chủ đạo. Thơ Mới được xem là một trong những nhịp cầu của hai bến bờ thơ ca truyền thống và hiện đại. Bước sang quỹ đạo của thơ ca hiện đại, Thơ Mới không hề đoạn tuyệt với thơ cũ, những ảnh hưởng của âm hưởng thơ Đường, thi pháp văn học trung đại, đặc biệt nghệ thuật dụng điển vẫn song hành bên cạnh những bút pháp mới trong các sáng tác.

Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ chịu những ảnh hưởng sâu sắc của lối viết phương Tây. Tuy nhiên, những đặc trưng của thơ ca trung đại, trong đó có điển cố vẫn được ông dẫn dụng trong các sáng tác của mình. Điển cố trong thơ ông không phải là một đồ cổ cũ kĩ lạc hậu trong đối tượng thẩm mỹ hay là sự vụng về, sùng cổ trong bút pháp. Ngược lại, bằng nghệ thuật sử dụng điển cố tài tình, Xuân Diệu đã góp phần chắp cánh cho Thơ mới tích cực hòa nhập với quỹ đạo tiếp nhận của công chúng đương thời.

Nửa đầu thế kỉ XX, khi nền Hán học suy vi, các nhà Thơ Mới nói chung, Xuân Diệu nói riêng ít nhiều chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thơ Pháp. Tuy là một trí thức Tây học nhưng Xuân Diệu vẫn có những ảnh hưởng từ người cha của mình. Chữ Hán đã được ông học tập từ rất sớm. Nhà thơ yêu thích và thuộc nhiều bài thơ Đường, nhiều tác phẩm kinh điển của văn học trung đại nước ta. Đó là cơ sở để ông nắm vững về điển cố và dẫn dụng chúng một cách chủ động, linh hoạt vào trong các sáng tác của mình.

Như đã biết, thơ ca cổ điển phương Đông chuộng trầm tĩnh, chú trọng sự tương giao, tương hợp, nặng về biểu ý, biểu tình… Đó chính là cội nguồn của tư duy Thơ mới. Cho nên không hề mâu thuẫn khi trong các bài thơ của Thơ Mới, trong đó có tác phẩm của Xuân Diệu vừa chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng lại vừa yêu chuộng việc sử dụng từ Hán Việt, thi liệu, dẫn dụng các điển cố là những biểu tượng của thơ ca truyền thống. Mượn phương tiện của phương Tây, truyền tải hồn vía của phương Đông là đặc trưng của Thơ mới nói chung và của thơ Xuân Diệu nói riêng.

Trình giữa làng Thơ Mới với một cái tôi đa phong cách, thơ Xuân Diệu trước năm 1945 vừa mang tính hiện đại lại vừa mang hơi hướng cổ điển. Trong Thơ thơ và Gửi hương cho gió, một số bài thơ như Vội vàng, Vô biên, Huyền diệu, Đây mùa thu tới,… chịu ảnh hưởng rõ nét, có nhiều cách tân trong lối viết được học hỏi từ thơ Pháp bởi chúng thiên về thế giới trữ tình, tràn đầy cảm xúc với những thức cảm thời gian… Một số bài thơ khác như Nguyệt cầm, Lời kỹ nữ, Nhị hồ, Mơ xưa… lại có hơi hướng cổ điển, mang tính chất hoài cổ, trang nhã, sâu sắc thâm trầm. Việc vận dụng những điển tích, điển cố vào nhóm bài này là hoàn toàn có chủ ý sáng tác. Dĩ nhiên, điển cố mang đến cho những bài thơ này nhiều giá trị thẩm mĩ độc đáo, quan trọng.

2. Được biết đến là “ông hoàng thơ tình” với những mộng Đường thi, Tống thi và cung sự nuối tiếc một thời quá khứ vàng son là cơ sở để Xuân Diệu tìm về những con người tài sắc của một thời. Họ là những minh quân, tôi hiền, giai nhân tuyệt sắc, tức những hình mẫu lí tưởng trong quan niệm về con người của chủ nghĩa lãng mạn. Những điển nhân danh là nhân vật lịch sử như Lộng Ngọc, Tiêu Lang, Bao Tự, Ly Cơ, Đường Minh Hoàng, Dương Quý Phi… không còn đơn thuần là những câu chuyện lịch sử về các giai thoại… mà hàm ẩn trong đó nhiều giá trị văn hóa, thẩm mỹ. Cái hay của việc vận dụng những điển cố này là truyền tải một tư tưởng thẩm mỹ về khát khao tìm thấy con người lý tưởng ngay cả trong tiềm thức:

… Và nàng Lộng Ngọc lấy Tiêu Lang,

Cưỡi hạc một đêm bay lên trời.

Vua Trần hậu chúa ngó trăng vàng,

Khúc Hậu đình hoa đương lên khơi.

[….] Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,

Tôi mê Ly Cơ hình nhịp nhàng

Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng,

Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phi.

(Nhị hồ)

Trước sự bất hòa với thực tại của chủ nghĩa lãng mạn, xuất phát từ cảm hứng hoài vãng, trong Mơ xưa, Xuân Diệu mượn chuyện Chiêu Dương, Hậu Đình, chuyện Hán Cao Tổ… để tìm đến lý tưởng, những điều phi thường vượt trên hiện thực tầm thường, tù túng:

Những Chiêu Dương, những Hậu Đình tráng lệ

Đẹp vì chưng xây với oán cung phi.

Cung nhà Tần trùng điệp mái lâm ly,

Hán Cao Tổ đốt chín ngày mới hết;

Tần cung nữ ba mươi trăm, chẳng biết

Gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu?

Không chỉ những trang giai nhân tuyệt sắc mà những người nữ vô danh như “kỹ nữ”, một đề tài quen thuộc của thơ trung đại, cũng chính là cảm thức “đồng cảm tương liên” để nhà thơ tiếc nuối quá khứ, nghiền ngẫm về cái tôi bản thể giữa cuộc đời. Lời kỹ nữ, bài thơ mượn lại điển thi ca trong bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, là tiếng lòng của một phút thoáng qua giữa mối tình đầy tri kỉ và sâu đậm – “kỹ nữ” và du khách”

Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt,

Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.

Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi,

Gỡ tay vướng để theo lời gió nước

(Lời kỹ nữ)

Cùng với điển nhân danh, các điển địa danh được dẫn dụng cũng làm sống lại không khí của một thời vang bóng. Hệ thống điển địa danh trong thơ Xuân Diệu trước 1945 có số lượng khá lớn, chủ yếu có nguồn gốc văn hóa Hán học, có tác dụng to lớn trong việc phục dựng không gian quá khứ là không gian đẹp đẽ, mỹ lệ, trang trọng, đối lập với không gian chật hẹp, tầm thường trong hiện tại. Ví như, trong Nguyệt cầm, một bến “Tầm Dương” mơ về với dư âm tiếng đàn vang vọng đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và con người tương tư, hòa lẫn trong nhau. Nếu tiếng đàn của Bạch Cư Dị hiện lên với những cung bậc tâm trạng của người kĩ nữ bị ruồng bỏ, của người nghe đàn bị đày đọa thì tiếng đàn của Xuân Diệu như là gam màu chủ quan của cái tôi trực cảm can thiệp:

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời;

Đàn ghê như nước lạnh trời ơi!

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

3. Những điển tích nhân danh, địa danh dẫn ra trên đây là minh chứng cho phong cách mới lạ độc đáo của Xuân Diệu: kế thừa mạch nguồn thơ ca phương Đông, tiếp thu tinh hoa thơ phương Tây để vươn tới những giá trị mới mẻ, độc đáo. Dùng điển đã trở thành phương thức sáng tác đầy dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Nghệ thuật dụng điển đã chứng minh Xuân Diệu khước từ những khuôn sáo gò bó của thơ ca trung đại, nhanh chóng hòa vào quỹ đạo của thơ ca hiện đại. Với ngòi bút vừa phóng khoáng, bay bổng, lãng mạn lại vừa tài hoa, uyên bác, truyền tải cả hơi hướng Đông – Tây, Xuân Diệu đã mang tới cho phong trào Thơ Mới tiếng nói của thơ ca dân tộc giản dị mà sâu sắc. Và điều độc đáo ở chỗ, chính nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ Mới” lại là người chủ động vận dụng “cái cũ” nhất của thơ ca truyền thống là điển cố vào trong sáng tác của mình một cách hiệu quả. Đây là một trong những đặc điểm độc đáo trong phong cách thơ Xuân Diệu trước 1945 mà lâu nay chúng ta ít để ý.

NGUYỄN CÔNG TRÍ

Báo Giáo Dục & Thời Đại

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm
“Lời của gió” - Lời của nước mắt, nụ cười
Tôi may mắn được người anh, người đồng nghiệp quý mến - Nhà thơ, Nhà báo Trần Thế Tuyển gửi bản thảo trường ca “Lời của gió” với tin nhắn giản dị, mộc mạc “Gửi chú đọc và thẩm cho anh”. Đọc thì đương nhiên rồi, nhưng không dám “thẩm”. Mấy lời sau đây tôi viết với tư cách là bạn đọc, là người em của Nhà thơ Trần Thế Tuyển.
Xem thêm
Không gian thiền tịnh và buông xả trong thơ Nguyễn Thị Sơn
Chùm thơ 4 bài: Thiền, Tịnh, Buông, Nhàn của nhà thơ Nguyễn Thị Sơn đã khái quát một không gian thơ mang tính tâm linh cho riêng mình, ở đó mỗi bài đều chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc về tâm trạng và trải nghiệm của con người. Những bài thơ này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Mỗi bài thơ là một khía cạnh khác nhau của sự tìm kiếm sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.
Xem thêm
Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”
Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .
Xem thêm
Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà
Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật
Xem thêm
So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương
ĐÁNH ĐUTám cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngGiai du gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân đã biết xuân chăng tá?Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không
Xem thêm
Chân dung đẹp từ nét vẽ của thơ
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật, ngày 22/8/2024
Xem thêm
Nhịp điệu của sức bền
1. Trong nhiều tác phẩm và bài viết trao đổi, Mai Văn Phấn thường nhắc đến quan niệm viết (và sáng tạo nghệ thuật nói chung) như một hành động kiến tạo không gian khác – khác với người khác và khác với chính mình, xem đấy như kim chỉ nam cho quá trình tìm tòi của ông. Đấy là một ý tưởng dễ được chia sẻ (và dễ biến thành các tuyên ngôn to tát) nhưng rất khó để hiện thực hoá, bởi nó buộc người viết phải ý thức đầy đủ về bản chất sáng tạo, biết liên tục đổi mới, hoặc nói cách khác, biết phủ định và tự phủ định. Càng ngày, khi càng đi xa và đạt nhiều thành tựu hơn, Mai Văn Phấn càng thấy rõ áp lực của việc phải khác trong thực hành sáng tạo. Nhưng đồng thời, việc viết trong áp lực (chủ yếu xuất phát từ đòi hỏi của ông với chính bản thân) đã hình thành ở tác giả này một tinh thần và thái độ thực tế mà ta có thể nói đơn giản như sau: muốn viết khác thì phải đọc sâu, đọc rộng. Có lẽ vì vậy, sau nhiều tác phẩm thơ liên tiếp xuất bản trong và ngoài nước, Mai Văn Phấn chọn nhịp bước chậm lại và rẽ sang phê bình với tập Không gian khác (2016) và mới đây nhất, là Nhịp điệu vẽ lối đi (2024).
Xem thêm
Hoa thơm, trái ngọt của lòng yêu thương
Nguồn: Thời báo Văn học - Nghệ thuật số ra ngày 15/8/2024
Xem thêm
Đọc thơ Trần Mai Hường
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần
Xem thêm