- Thế giới sách
- Đọc “Hoa ở chốt” của Phan Nhật Tiến
Đọc “Hoa ở chốt” của Phan Nhật Tiến
Nhà thơ Trần Trí Thông giới thiệu "Hoa ở chốt"
Có lẽ Phan Nhật Tiến là người lính cuối cùng làm thơ ở Trường Sơn, bây giờ mới công bố những tác phẩm của anh khi viết về những tháng ngày đẹp nhất: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước…”. Cùng với bao đồng chí, đồng đội của anh.
Phan Nhật Tiến vào bộ đội với “tay nghề báo vụ” của binh chủng thông tin, thuộc Bộ Tư lệnh thông tin Miền Đông Nam bộ. Ngày ấy, báo vụ viên được xem như thần tượng của cánh lính trẻ chúng tôi và những cô nàng yêu lính. Chỉ cần được chụp hai tai nghe, đưa tay nắm vào núm ma - níp và có một kiểu ảnh để khoe thì đã là một sự oai không tưởng nổi rồi. Huống chi Phan Nhật Tiến lại là một báo vụ thứ thiệt. Được đào tạo bài bản, mỗi lần đến phiên việc, đám quay viên chúng tôi lại được dịp toát mồ hôi với cái phát điện quay tay, mà ai đó từ bao giờ đã gọi nó là cái đầu bò. Cứ ngỡ người lính báo vụ cả ca làm việc chỉ “Tịch tịch – tà tà – tịch tà…tịch” khô khan ấy lại ẩn chứa một tâm hồn “văn chương đa cảm và bồng bềnh” như cánh sóng máy thông tin 15 oát giữa trời.
Đi suốt dọc dài đất nước, nhưng khi vào đến chiến trường Miền Đông Nam bộ, Phan Nhật Tiến mới dùng thơ viết nhật ký cho mình, cho đồng đội, cho binh chủng của anh khi đi qua những vùng đất những cánh rừng, con suối, sóc đồng bào dân tộc mà có dịp dừng chân.
Không cầu kỳ và chau chuốt, nhưng những bài thơ của Phan Nhật Tiến lại gây hiệu ứng thích thú cho người đọc. Bởi ngôn ngữ, bút pháp nghệ thuật cũng như ý tứ thể hiện. Đều toát lên một sự “Non xanh – thật thà – chân thành – giản dị - tự nhiên của một trái tim đôi mươi đầy hoài bão. Tôi gọi thơ anh “non xanh” không có ý nói thơ của anh non nớt, mà non xanh ở đây là sự tươi mới, trẻ trung, trong trẻo của người lính giữa chiến trường ác liệt, suốt ngày bom rơi đạn réo:
“Gió đuổi nắng chạy trên đồi xa tít
Mây rủ nhau đi họp chợ chân trời…”
(Bay xa)
Mặc trên đầu là lũ “Cá Nẹp dòm ngó, bọn “HU-1A”phành phạch truy vết, lão OV10 sẵn sàng chỉ điểm cho đàn C 130” vác bom tới… hay thi thoảng là những loạt pháo bầy gầm ghè đe dọa:
“Đất đá cỏ cây tất cả đều sơ xác
Chỉ còn hoa cười trên gương mặt bạn tôi…”
(Hoa ở chốt)
Giữa chiến trường ác liệt, sự sống cái chết cận kề nhưng tôi không thấy một chút sợ hãi hay bi quan chán nản trong thơ anh. Phan Nhật Tiến nhìn và quan sát những gì đang diễn ra bằng ánh mắt rất lạc quan rất thơ, khi tạm trú quân ở vùng địch vừa oanh kích, rồi cùng người dân:
“Lấp mấy hố bom chắn ngang đường cái
Làm căn hầm cho đàn gà mới xuống ổ trưa nay…”
(Một ngày ghé lại)
Cánh rừng đóng quân bị bom giặc chà đi sát lại bao lần, bởi bom khoan, bom bi, pháo chụp, pháo bầy… chỉ còn sót lại cây ớt hiên ngang thách thức đạn bom. Mà cũng lạ, khi trái ớt chín đỏ đầy quyến rũ, chú chim chào mào bay đến, chim chỉ ngó nghiêng suy nghĩ và chợt phát hiện ra:
“Chùm ớt đỏ như những giàn tên lửa dưới trời
Gác phòng không trước căn hầm dã chiến…”
(Cây ớt trước căn hầm)
Tôi cũng đã từng là một quay viên, quay cái “đầu bò “để cấp điện cho đài 15w làm việc. mỗi lần báo vụ rê ma - níp thì bọn tôi lại bở hơi tai vì sự tiêu thụ điện của máy, nó làm cục phát điện nặng gấp ba lần bình thường. Thế mà những bài thơ viết về nghề nghiệp, Phan Nhật Tiến chỉ nói về cột ăng -ten, tai mắt của đài 15W, chẳng khi nào nói về mình hay nói về “công” của chúng tôi bao giờ. Trong thơ anh là một sự bao quát chứ chẳng thiên vị về ai. Đó cũng chính là một sự khách quan vốn có của một người làm thơ:
“Riêng tổ đài chiến dịch
Vẫn treo mắt trên ngọn su trông theo…”
(Hương rừng su)
Sống, chiến đấu trọn nghĩa ven tình cùng nhân dân cùng đồng đội, anh luôn có sự cảm thông và chia sè, thấy người phụ nữ làm nương phát rẫy một mình, anh cũng ghi vào nhật ký của anh:
“Chị cười rừng nép bóng hoa
Gió reo suối đá cũng hòa niềm vui…”
(Gặp chị là nương)
Đi tác chiến qua sóc Bom Bo anh cũng làm thơ ở đó. Những Bù Đốp, Đắk Nhau, sông Thị Tính, Lộc Ninh, Tây ninh… tên đất tên rừng cũng hóa những vần thơ.
Trong thơ Phan Nhật Tiến là ắp đầy kỷ niệm, một đĩa măng xào cũng thơm nức tình quê. Hình ảnh người mẹ quê tần tảo, hy sinh nuôi anh khôn lớn:
“Tình của mẹ nuôi con ngày tấm bé
Đất chiến trường nuôi lớn những ước mơ…”
(Bữa cơm giũa rừng)
Trải lòng với bầu trời qua những cánh sóng thông tin, chúng tôi hay đùa nhau “ăn cơm dưới đất, ngủ trong hầm, làm việc trên trời, yêu đơn phương…”, vậy mà trong thơ và trong lòng Phan Nhật Tiến vẫn có một bóng hồng:
“Anh gặp nhiều hoa lắm
Nhưng chẳng hoa nào đẹp
Bằng bông hồng em trao…”
(Bông hồng)
Và những dự án cho ước mơ xanh mướt như cánh rừng cao su mùa thay lá:
“Rồi nước mình sẽ hết chiến tranh
Chân sẽ đưa em về nơi anh đang đứng
Rừng rẽ lối tới ngôi nhà anh sắp dựng
Trên bả đồ them chấm đỏ tương lai…”
(Ngôi nhà tương lai)
Những tháng năm ở chiến trường miền Đông Nam bộ, đã trui rèn một chiến sĩ báo vụ thành một người thầy dạy báo vụ cho những đợt lính mới bổ sung vào đơn vị. Thấy anh đứng lớp trong phòng học dã chiến giữa rừng, tôi càng cảm phục cái sự tận tình chỉ dạy của anh bằng cả kiến thức lẫn kinh nghiệm của mình cho lính mới học nghề. Kết thúc khoa học, thầy trò anh lại vội vã hành quân vào chiến dịch:
“Nhận lệnh lên đường chiều hai chín (29)
Hành quân quên nghỉ ngày ba mươi (30)
Sửa vội căn hầm kê xong bếp
Mặt trời ba mốt (31) cười trên ngọn cây…”
(Xuân ở tổ đài tiền phương)
Dù ở chiến trường xa vạn dặm, nhưng Phan Nhật Tiến vẫng luôn nhớ quê hương, nơi có hình bóng người mẹ quê hiền lành, chất phác đã truyền lửa cho anh:
“Củ khoai tròn một chữ thương
Để cho hạt gạo lên đường đi xa
Vuông sân nửa ánh trăng ngà
Mẹ ngồi dần gạo nồm sa ướt tường….
…..
Mai sau “bảy đất chín trời
Vẫn thương mẹ hạt tấm đời lựa ra…”
(Mẹ - hạt tấm đời lựa ra)
Với quê hương, với gia đình, với đồng đội… Phan Nhật Tiến sống trọn vẹn nghĩa tình của một người con, một người anh, một người đồng chí.
Thơ của anh đã thay anh nói lên tất cả. Chia tay anh ngày đất nước thanh bình, tôi cứ ngỡ không có ngày gặp lại anh, nhưng bất ngờ trong một lần đi họp phụ huynh học sinh cho con tôi và anh gặp nhau: “bất ngờ gặp lại bất ngờ “
Và bây giờ thì các bạn biết đấy, tôi đã rất hân hạnh đượcđược đọc bản thảo và viết đôi lời cảm nhận về tập thơ HOA Ở CHỐT của tác giả Phan Nhật Tiến, hy vọngsẽ khơi gợi đôi điều cùng quý bạn đọc khi các bạn cầm trên tay tập thơ HOA Ở CHỐT
Tháng 4- 2023
HOA Ở CHỐT
Ba ngày rồi chúng tôi ở đây
Dòng dây xích siết chặt hầu lũ giăc
Đất đá cỏ cây tất cả đều xơ xác
Chỉ còn hoa trên gương mặt bạn tôi
Những nụ hoa đọng trong mắt sáng ngời
Trước trận đánh ngắm trời xanh tinh nghịch
Qua thước ngắm nhìn thấu tim đen địch
Xác giặc chất chồng dưới những chùm hoa
Những trận bom gần những loạt pháo xa
Tất cả đều loạn điên hốt hoảng
Chúng muốn qua đây để đi gây tội ác
Nhưng chẳng bao giờ bò được tới bờ hoa
Trận đánh thứ năm trong ngày đi qua
Công sự đã bao lần đắp lại
Khói cuốn đá bay đồi như thấp xuống
Riêng bờ hoa bờ công sự vẫn cao
Nòng súng lặng yên chờ chúng mò vào
Bình thản hiên ngang trước trăm trận đánh
Từ bờ hoa nở thêm hoa chiến thắng
Hoa ở chốt này những đôi mắt rất trong.
XUÂN Ở TỔ ĐÀI TIỀN PHƯƠNG
Nhận lệnh lên đường chiều hai chín
Hành quân quên nghĩ ngày ba mươi
Sửa vội căn hầm kê xong cái bếp
Mặt Trời ba mốt cười trên ngọn cây
Đài trưởng hội ý về hoa hoa cái tay
Bốn mái tóc xanh chụm lại nghe phổ biến
Súng đạn sẵn sàng có lệnh trừng trị địch
Và triển khai công tác đón xuân
Thịt gạo đã có bên hậu cần
Hoa phong lan ở rừng không hiếm
Máy đặt gọn gàng trên chiếc bàn dã chiến
Chỉnh đèn nê - ông lên sóng đón giao thừa
Mùa Xuân về theo nhịp võng đưa
Giữa mặt trận nghe âm vang tiếng súng
Tổ đài tiền phương bên cụm rừng phát sóng
Góp lửa ăng - ten cho ngời thêm sắc xuân.
Ngày 02/01/1975.
CÂY ỚT TRƯỚC CỬA HẦM
Chú chào mào xà xuống
Cây ớt trước cửa hầm
Nhìn chùm lửa
Nghĩ gì mà chim không ăn nữa?
Thương gì mà mắt long lanh
Những chùm lửa ngụy trang trong lá xanh
Bom phạt nhiều lần giờ còn mình nó
Xót thương nhiều nên quả đỏ
Căm giận nhiều nên sắc thêm tươi
Những đắng cay trên đời
Đang aut tụ dưới màu xanh yên lặng
Từ mát lành lòng đất
Nhân vạn lần sức sống sinh sôi
Chùm ớt đỏ chĩa giàn tên lửa lên trời
Trực phòng không trước căn hầm dã chiến.
Tháng 8/ 1974