TIN TỨC

Đọc “Mùa xuân xanh” nhớ “Mùa xuân chín”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-01-09 16:15:20
mail facebook google pos stwis
790 lượt xem

Mùa xuân của thiên nhiên cứ theo qui luật tạo hóa mà đi và đến. Mùa xuân của lòng người lại theo nhịp đập của trái tim tình yêu và tuổi trẻ, ước mơ và khát vọng. Mùa xuân của một dân tộc là cái bản lề nối liền những thắng lợi của năm cũ với năm mới sau 365 ngày. Nhà thơ Nguyễn Bính chào đời và ra đi đều vào mùa xuân. Từ sáng 30 Tết năm Ất Tỵ (20/1/1966) nhà thơ đã vĩnh biệt thế giới này về miền mây trắng. Còn nhà thơ Hàn Mặc Tử, tuy hơn Nguyễn Bính 6 tuổi, nhưng cũng đã lên tiên từ mùa đông năm Canh Thìn  (11/11/1940). Hai nhà thơ ở hai phương trời xa lạ nhưng cảm xúc về mùa xuân lại có nét tương đồng. Cả hai thi sĩ đều nhìn mùa xuân như một trái cây ngọt lành đang chuyển từ xanh đến chín. Hàn Mặc Tử có cả một tập Xuân như ý với mấy chục bài thơ xuân. Nguyễn Bính lại có Mưa xuân, Xuân về, Thơ xuân, Xuân tha hương, Xuân nhớ miền Nam

 Với mùa xuân này, tôi muốn quay về hơn nửa thế kỷ trước để tận hưởng “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính. Bài thơ “Mùa xuân xanh” được in năm 1937 trong tập “Một nghìn cửa sổ”,  và bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử cùng in năm 1937 trong tập “Nắng xuân”. Nguyễn Bính chân quê, dân dã. Hàn Mặc Tử tài hoa, bất hạnh.

Cảm nhận về mùa xuân của Nguyễn Bính “Bắt đầu là cái thắt lưng xanh” của một cô gái vừa ra khỏi lũy tre làng. Đó là tứ thơ mộc mạc, gần gũi mà không phải thi sĩ nào cũng phát hiện ra. Từ cái màu xanh đầy hơi ấm của sức trẻ ấy, tầng liên tưởng được mở rộng:

    Mùa xuân là cả một mùa xanh

   Giời ở trên cao, lá ở cành

   Lúa ở đồng tôi và lúa ở

   Đồng nàng và lúa ở đồng quanh.

Một màu xanh bát ngát, tràn ngập như vây quanh ta. Trên trời cao mây xanh, dưới mặt đất lúa xanh. Cỏ cây, lá cành đều xanh. Màu xanh quấn quít, nhiều tầng, nhiều lớp được diễn tả bởi câu thơ vắt dòng: “Lúa ở đồng tôi và luá ở/ Đồng nàng và lúa ở đồng quanh”. Bốn câu thơ mà có tới năm từ “ở”, làm màu xanh của mùa xuân hiển hiện rõ nét ở giời, ở lá, ở cành, ở đồng nàng, ở đồng tôi, ở đồng quanh. Nhìn phương nào ta cũng bắt gặp một màu xanh bát ngát đến vô tận. Mùa xuân có tiết thanh minh trong sáng, thường vào cỡ tháng ba âm lịch. Cỏ non như chờ đợi xuân đến, chờ tình yêu của đất trời ban tặng:

  Cỏ nằm  trên mộ đợi thanh minh

  Tôi đợi người yêu đến tự tình

  Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy

  Bắt đầu là cái thắt lưng xanh.

Mùa xuân là mùa của tình yêu. Chẳng thế mà Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau trong ngày hội Đạp thanh của tiết thanh minh với  “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cỏ cây hoa lá, lòng người đều háo hức đón xuân. Chàng trai mới ước đó mà cô gái đã xuất hiện: “Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy/ Bắt đầu là cái thắt lưng xanh”. Hóa ra mùa xuân không ở đâu xa, không đợi con tạo xoay vần, mà mùa xuân đồng nghĩa với tình yêu. Màu xanh của chiếc thắt lưng cô gái là biểu tượng của màu tình yêu. Nó là cái màu của thời gian, màu của hy vọng tuổi trẻ. Nguyễn Bính rất ưa dùng màu xanh trong thơ. Ở bài Xanh  (1951) ông cũng đã để cho màu xanh chen lấn với cảnh và người:

        Xanh cây, xanh cỏ, xanh trời

       Xanh rừng, xanh núi, da giời cũng xanh

      Áo chàm cô Mán thanh thanh

 Mắt xanh biêng biếc một mình tương tư.

   Mùa xuân ở phía Bắc mang nét đặc trưng riêng. Còn ở phía Nam thì bốn mùa không phân biệt rõ, mà ta chỉ thấy hai mùa mưa nắng tiếp nhau. Cũng mùa xuân 1937 ấy, Hàn Mặc Tử đang ở Qui Nhơn, ông hỏi xuân “Ngoài kia xuân đến thắm duyên chưa/ Trời ở trong đây chẳng có mùa”. Sau ngày giải phóng miền Nam, nhạc sĩ Phạm Tuyên ngồi giữa Sài Gòn cũng  muốn gói nắng vàng rực rỡ gởi ra ngoài Bắc cho em: “Anh ở trong này không thấy mùa Đông/ Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ/ Trời Sài Gòn xanh trong như quyến rũ/ Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam”. Có lẽ nhìn ánh nắng vàng chan hòa ấy mà Hàn Mặc Tử mới tưởng tượng ra là “Mùa xuân chín”:

 Trong làn nắng ửng khói mơ tan

 Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

 Sột soạt gió trêu tà áo biếc,

 Trên giàn thiên lý, bóng xuân sang.

 Mùa xuân của Hàn Mặc Tử lại gắn với màu vàng tràn đầy nơi thôn dã, thật thơ mộng và đáng yêu. Lòng người, lòng xuân bừng nở, hân hoan, ngân vang và tỏa hương sắc với đất trời. Một buổi mai có nắng nhẹ lơ lững làm tan màn sương khói mờ ảo. Nắng xuân như rắc vàng lấm tấm lên cảnh vật, lên mái nhà tranh. Gió xuân vô tình hay hữu ý trêu tà áo biếc của cô gái. Và bóng hình mùa xuân đã làm giàn thiên lý đẹp hơn. Nhà thơ nói bóng xuân sang, nghĩa là mùa xuân mới bắt đầu chớm tới. Thi sĩ đi từ những hình ảnh cụ thể của nắng, khói, sương, gió của giàn thiên lý để chào nàng xuân. Còn Nguyễn Bính đi từ khái quát: “Mùa xuân là cả một mùa xanh” đến các chi tiết cụ thể. Các cô gái của Hàn Mặc Tử trong “Mùa xuân chín” hiện lên như sờ thấy được, chứ không như cô gái e lệ, thấp thoáng sau lũy tre làng trong “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, chỉ ló ra cái thắt lưng xanh. Trên cái nền xanh của cỏ gợn tới trời, các cô thôn nữ đùa vui hồn nhiên, nhí nhảnh và pha một chút tinh nghịch, dí dỏm:

 Sóng cỏ xanh tươi gợi tới trời

 Bao cô thôn nữ hát trên đồi

  - Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

  Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

 Đang vui xum họp, các cô đã nghĩ tới sự xa cách của cái ngày mai ấy. Tiếng hát du xuân như chững lại, như ngậm ngùi khi cuộc vui đến hồi kết thúc. Tuổi trẻ rồi sẽ trôi qua như “đời người không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Các cô thôn nữ vui hết mình, vui bất tận. Ta như nghe rõ từng tiếng ca vắt vẻo tiếng thở hổn hển, tiếng tâm sự thầm thĩ bên những khóm trúc. Theo nhịp đập của con tim, từng đôi trai gái đang đắm đuối, tận hưởng mùa xuân. Trong thơ hiện đại Việt Nam, hiếm có những khổ thơ đẹp như thế. Một loạt từ láy gợi âm, gợi hình càng làm sống động hơn bức tranh xuân tràn trề sức trẻ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang ở trong nhà thương Quy Hòa, nhưng hồn thở vẫn thả theo gió mây, theo tiếng ca xuân để viết nên những dòng tuyệt bút. Trở về với thực tại cay đắng của số phận, ông ôm một mối sầu buồn: nhớ quê, nhớ làng, nhớ tới một mối tình không thành:

  Khách xa gặp lúc mùa xuân đến     

 Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:

  - Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Nhân vật trữ tình đến đây có sự đổi vai. Từ thôn nữ tới có kẻ rồi tới  ai,  và sau cùng là chị ấy. Chị ấy là ai ta không cần biết. Đó có thể là một Mộng Cầm, hay một Hoàng Cúc chăng? Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả như nhà thơ đã viết trong “Đây thôn Vĩ Dạ”: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà?”. Với “Mùa xuân chín”  hình bóng người con gái ấy tưởng như xa vời nhưng lại rất gần gũi thân thương. Nhà thơ vẫn tôn thờ người tình trong tâm tưởng và nâng lên ở mức cung kính qua cách xưng chị ấy, để rồi vĩnh viễn lìa xa. Câu thơ cuối cùng khép lại ý tưởng mà âm hưởng cứ lan toả với vần điệu quấn quít được chứa đựng trong một câu hỏi tu từ: “Chị ấy năm này còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?”.

Ngày xuân đọc lại hai bài thơ xuân của nhà thơ Nguyễn Bính và nhà thơ Hàn Mặc Tử ta như được thả hồn mình về với một miền quê yên vui thanh bình, chan hòa sắc màu tươi mát để lắng nghe những âm thanh rộn rã và hít thở hương đồng gió nội của mùa xuân xanh -  mùa xuân chín, của làn nắng ửng: khói mơ tan…. Hai bài thơ như có ma lực ám ảnh ta mãi mãi. Nó chứa chan nhựa sống của mùa xuân và tuổi trẻ, của tình yêu và hy vọng .

 

                                                                  LÊ XUÂN

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm