TIN TỨC

Đọc “Phút 89”: Minh Đan đào được một kho báu vô giá nơi hồn thơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-27 16:23:15
mail facebook google pos stwis
1429 lượt xem

NGUYỄN KIÊN GIANG

Trong Túc cầu giáo, nói đến “Phút 89” là nói đến sự gay cấn tột đỉnh, nói đến những tình huống – những pha bóng kinh điển làm người xem mãn nhãn, nói đến sự xuất hiện của kỳ tích tạo nên những cung bậc cảm xúc ấn tượng cho khán giả. Một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục của nhà vô địch để bảo vệ thành công ngai vị của mình, hay một tân vương mới lên ngôi chăng?

“Phút 89” – điều gì đã mở ra? Đó là một “khu vườn Eden huyền thoại xanh ngời” – nơi hương sắc nở rộ, nơi con người từ chối những thánh ân để chọn cho mình một con đường chông gai hơn, nhưng “người” hơn. Thiện ác phân ranh từ đó! Tôi không nói về bóng đá, tôi đang nói về một tập thơ – tập thơ có tên “phút 89” của nữ sĩ Minh Đan.

Ra sông đãi cát tìm vàng

mang về một gánh ngổn ngang thơ vè

(Thay tựa…)

Minh Đan bắt đầu “Phút 89” của mình như vậy. Điều trớ trêu chăng, khi người “đãi cát tìm vàng” lại mang về những thứ “phi vật chất” như “thơ vè”? Không, đó là một cách tự cười mình thay cho đời sống này, nhưng nó cũng ẩn chứa chính cái cười bao dung của tác giả đối với sự lệch lạc của đời sống khi cho rằng thơ ca là phù phiếm. Là “thơ” hay “vè” xin nhường cho độc giả định đoạt. Đối với Minh Đan, nữ sĩ “đãi cát tìm vàng” và đã mang về được “một gánh” vàng. Vàng đấy! Thơ ca là vàng đấy, tin tôi hoặc tôi sẽ làm cho bạn tin! Còn đối với tôi, Minh Đan đã đào được một kho báu vô giá nơi hồn thơ của nữ sĩ, nó nằm đây – trong “Phút 89” này.

Minh Đan sử dụng rất nhuần nhuyễn và uyển hoạt các thể thơ truyền thống cũng như tự do đương đại. Tuy vậy, Lục bát biến thể vẫn là “tuyệt kỹ trấn môn” của cô, thi pháp này vẫn chiếm phần quan trọng trong “Phút 89” (hơn 1/3 số thi phẩm). Ai chê Lục bát là cũ, là lỗi thời thì dù có hàm hồ tôi cũng phải phán ngay: anh/chị không làm được thơ Lục bát hay nên nói thế! Lục bát là cái hồn vía của dân tộc, để nó phù hợp hơn với thi cảm đời sống hiện đại, thi sĩ cũng nên làm mới nó bằng nhiều cách và Lục bát biến thể đã được tạo nên. Chúng ta xem những câu sau: đời choàng giông/ bão lên vách/ em ngoan cường phơi/ ngọc thách gió sương/ mùa chưa xa/ lơ thơ/ cuồng/ hoa rụng rụng/ rêu phong tường/ đìu hiu… (Phơi) Cách vắt dòng của những câu thơ trên tựa như sự phối hợp giữa Lục bát và Tân hình thức – một thể thơ rất mới với chúng ta. Nó tạo nên tiết tấu, nhịp điệu mới mẻ cho Lục bát mà vẫn giữ được cái hồn đầy nhạc tính của Lục bát. Ngôn từ vừa cổ phong vừa hiện đại, lại lắt léo thanh bằng trắc đã tác tạo những hình ảnh, gam màu đặc sắc. Nếu đọc lên thành tiếng đoạn thơ trên, nhất là những âm tiết sau: mùa chưa xa/ lơ thơ/ cuồng/ hoa rụng rụng / rêu phong tường/ đìu hiu hẳn bạn sẽ thấy thú vị, thấy những gì mà thanh âm ngôn từ có thể mang lại. Điều này “bất khả thuyết” hoặc giả tôi chưa đủ khả năng để nói rõ với bạn về nó: sự tác động kỳ lạ của những âm tiết ngôn từ lên tâm hồn chúng ta, đó là điều cốt lõi của những câu thần chú trong truyền thuyết chăng? Cứ thế, Lục bát biến thể “tung hoành” theo mức độ và cách thức khác nhau đến “phút 89” và chung cuộc, làm nên những sắc thái khác nhau, đa thanh đa sắc. Như, trong “lạc quan khâu lại những bồi hồi đã qua”: ước gì mưa rớt đầy sông/ buồn trôi theo nước/ tôi bồng vui đi/ tặng ai kia đóa nhu mì/ nụ cười nhú nắng/ bờ mi khép hờ… hay trong “ngày lạ!”: nắng cong cong/ sóng lơn cơn/ bếp than/ hạ nhiệt / mưa hờn ghé vai… Đối với hai thi phẩm vừa kể, ta còn thấy xuất hiện những hình ảnh rất sáng tạo, xinh xắn như: “tôi bồng vui đi”, “nụ cười nhú nắng”, “nắng cong cong”, “sóng lơn cơn”… Một góc kiêu kỳ của khu vườn đã mở ra.

Bên cạnh đó, các thi pháp hiện đại cũng có thể xem là ưu thế của Minh Đan. Thi pháp này đã xuất hiện không ít trong các tập thơ trước của Minh Đan như “Ngày không bọt”. Nhưng đến “Phút 89” nó trở thành thi pháp chủ đạo, được nữ sĩ sử dụng thuần thục và phù hợp với giai điệu của cảm xúc tạo nên hiệu ứng cộng hưởng cho hiệu quả biểu đạt của thi phẩm.

Ta thấy trong “Ngai tình”: anh đặt môi hôn lên mắt gió/ tiếng thở căng mùi da non/ em lên ngai từ mũi tên/ bầu sữa thơm ngày thai nghén. Ở đây, một trường liên tưởng không xác định được đường biên đã hình thành: anh, môi hôn, mắt gió/ tiếng thở, mùi da non/ em, lên ngai, mũi tên/ bầu sữa, ngày thai nghén, với những ngôn từ mà hàm nghĩa của nó bị rung chuyển bởi một sự tạo tác hàm nghĩa mới, không hề có sự khoanh vùng khi hình thành mà vẫn nằm trong một trường hấp dẫn bởi trung tâm của nó: ngai tình! Có vẻ như cách thức này xém tác tạo nên một trường siêu tưởng như những thi phẩm hiện đại điển hình khác, nhưng không hẳn vậy, nên nó không làm người đọc có cảm giác quá xa lạ. Trong nhiều thi phẩm khác ở “Phút 89” như: “Trước & sau giờ tận thế”, “Quan sát”… chúng ta sẽ bắt gặp những thi pháp rất độc đáo và thú vị mà tôi sẽ đề cập ở phần bên dưới. Song, điều đáng trân trọng, đáng tán dương ở “Phút 89” nặng ký hơn nhiều so với hình thức nghệ thuật xây dựng nên nó. Đó chính là nội dung tư tưởng của thi phẩm.

Vẫn có những niềm riêng: Khát khao của người con gái về tình yêu, có khi là những tâm sự dịu dàng mà da diết: trời đất thăm thẳm/ trăng bao đêm trở giấc lạnh miền sương/ cô đơn em cuồng réo tên anh/ vớt vát môi tình vừa kịp khép… ban mai nắm hờ vai áo/ non non chuyện phiêu bồng (Tình ơi!); hay dữ dội, cháy bỏng: triệu triệu lần khao khát đến bên anh/ như nàng Kiều trong đêm khuya vượt rào thưa tìm Trọng/ giữa mùa trăng, em muốn cúc áo này nới lỏng/ ngọn gió lùa vào thơm mát thịt da… rồi đớn đau bởi những điều hữu hạn giữa tử và sinh, giữa những rào cản đã cũ kỹ trong quan niệm già nua của xã hội: cọc tìm trâu có nghĩa lý gì a (!?) / bao nghiệt ngã cứ nặng oằn lên tóc… nhưng sức sống của tình yêu chân thành, của tuổi thanh xuân tràn trề sinh khí đã hiên ngang lên tiếng cho sứ mệnh “phải sống đẹp”: nhưng sức sống mỗi phút giây bừng trỗi/ những vui buồn ngày tháng cứ hồng hoan (Em muốn…), “Quyền lực trái tim” sau những so sánh với những quyền lực siêu phàm đã khẳng định: em thách thức: còn ai say đắm hơn anh?/ quyền lực lặng im quy phục/ chiến thắng thuộc về tình yêu chân thật/ khu vườn Eden huyền thoại xanh ngời. Có lẽ, Minh Đan đã nói thay cho thân phận nữ nhi những khát khao về tình yêu chân thật, về hạnh phúc giản đơn tự thủa xa xưa đến giờ: “anh và em”, không ai có thể và cũng không ai muốn cản ngăn điều đó – dù những bất trắc vẫn thường tìm đến, bằng hình ảnh rất nữ tính: em đàn bà từ anh - thường trực/ những khát khao không thể đặt vòng (Không thể đặt vòng).

Hay sự suy nghiệm về bản thân như một niềm kiêu hãnh nên có: kiêu hãnh mặc đời ghẹo trêu xấu hổ/ hôm nay em ngước lên cao (Thị Nở vùng lên), rồi về nghề như một sự tự nhắn nhủ cần thiết: ta tranh đấu nghĩa là không uốn bút/ soi lương tâm bình thản nghiệp đời/ phút huy hoàng ngửa mặt hót vui/ bầu trời ấy ngút màu xanh cao vợi (Ngẫm). Đó là những ý thơ đẹp bởi lột tả thành công cái đẹp. Điều đáng quý là Minh Đan cũng ý thức được vẻ đẹp đó của mình và không cần phải vờ che giấu!

Khác với những tập thơ trước, ở “Phút 89”, đề tài thế sự đã kiến tạo nên một cấu thành vững chắc, một kiến trúc nổi bật trong quần thể kiến trúc đẹp. Đó là tấm lòng của nữ sĩ với những cảnh đời không may! Với một em bé bên lề cuộc sống bôn chen: gặm tờ polymer xương xẩu/ tôi náu cơn đói vào mẩu bánh mì vừa mới ra lò/ bên kia đường một em bé lấm lem/ hơi thở xem chừng đứt quãng/ tôi nâng đời em bằng/ mẩu bánh mì không nhưn, không vị/ em ngấu nghiến cơn đói hoành hành, nuốt trộng giấc mơ thi sĩ/ nắng tháng tư lênh loáng mắt cười, và Minh Đan thấy cái thấy của một tấm lòng – nữ sĩ nhận lại: dạ dày tôi bỗng dưng… phấn khích/ ru ngủ mùa phượng vĩ cầm hơi (Đi qua cơn đói), cái mùa phượng vĩ cầm hơi đó “ngon” thật! ấm lòng thật!

Hay với những cô gái “lấy chồng xứ lạ”: sông quê lặng lẽ / nhạn về phố mới/ tương lai trong ánh mắt không màu? ánh mắt không màu ấy thật buồn, tương lai không màu ấy thật buồn, những thân phận buồn – quê hương xa ngút cũng buồn vậy! Rồi với cả một thiếu nữ xinh đẹp đội lốt quỷ (hay quỷ trong lốt cô gái?) thành “ma làng” gây tội nghiệp tày đình, thiên địa bất dung cũng được nữ sĩ nhìn bằng cái nhìn độ lượng và nguyện mong cho con ma ấy một cái kết có hậu: những nấm mồ xanh cỏ/ không còn hoen ố/ bầu trời/ tươi tỉnh ngày trong/ cũng từ ấy, em hồi sinh… Ở vị trí người “quan sát”, nữ sĩ đã thổn thức cho những mảnh ghép dễ vỡ trong đời sống này: là thân phận kẻ ăn mày, phu quét đường, em bé mồ côi, người mẹ già gánh hàng rong, đó không phải sự quan sát đơn thuần mà còn là sự nhập vai, sự hóa thân trải nghiệm – một thủ pháp rất phức tạp để nhìn rõ lòng mình, lòng người: hàng giờ liền vẽ bức thỉnh cầu/ đánh thức lặng im mở tiếng/ ai thản nhiên thốt lời phỉ báng/ xé lòng mùa thiên di… Trong “cong cong thế giới mạng”, “đời trinh nữ”… và nhiều bài khác chúng ta sẽ thấy được những tấm lòng như vậy. Đó là tấm lòng của Minh Đan đối với đất nước! Qua nỗi lòng tri ân của nữ sĩ đối với cuộc chiến tranh vệ quốc thế kỷ 20 trong một chiều về thăm địa đạo Củ Chi: chuyến về nguồn bỗng rơm rớm ướt/ lịch sử cài then - tức ngực/ trở lại phố đông chật chội bóng ngày. Và lột mặt bọn quan tham: sống quanh mình bao người ton hót/ lời nịnh thần nghe dễ lọt tai/ bản lĩnh nào soi đáy lòng tham?/ vơ vét sạch kho tàng có thể/ mặc ai oán, ai than, ai kể (Nằm mơ thấy bao chửng khóc). Hay thái độ căm ghét “gã hàng xóm xấu tính” tự bao đời nay vẫn rắp tâm mưu toan nuốt trọn láng giềng, chà đạp hàng xóm: bởi túi tham, gã nấp dưới ao sâu/ rào đường lưỡi bò chắn ngang cột mốc/ bứng lấy chén cơm đời tôi khó nhọc/ quen cướp giật rồi, mặt gã tỉnh không, và xót xa, căm giận trước sự nhu nhược với kẻ tham bạo: căm giận mình yếu đuối trước hung hăng. Đó là những suy nghiệm của Minh Đan về cõi nhân sinh man man những điều khó tỏ! Có khi thấy như “Mê lộ” không lối thoát: số phận lỏng đinh/ chìa khóa lương tâm tráo trở/ những linh hồn neo thân tạm bợ/ chạy rong khắp ngõ diễn trò, rồi tự nhủ: thôi, nép bên đường nhỏ hẹp/ nhẹ lòng đi giữa hừng đông. Trong cuộc sống bon chen những mưu toan khác chi “Bàn cờ”, những khiếm khuyết trắng đen điên đảo: ô trắng không khuyết mà khuyết cả tên mình/ bọc dưới lớp áo thêu mây dệt gió/ sự thật thôi không bỏ ngỏ/ đừng tự hoan ca phù phiếm nhọc nhằn, nữ sĩ nhắn nhủ: sống vui như cánh cò thoát tục dưới trăng…

Minh Đan ưu tư sâu sắc về sự chân thành: khi nào người ta – ít nhất là – thành thật với chính mình? đợi đến khi tận thế chăng?! có lẽ, còn một nơi khác: đi thẳng vào restroom soi gương xem có phải là mình/ chỉ ở đây con người không tàng hình/ không đóng vai chính vai phụ cho vở diễn/ đưa tay lên ngực trái thấy tim còn nhúc nhích/ biết mình sống sót/ sau giờ tận thế maya (Trước & sau giờ tận thế). Đây là một bài có thi pháp khá độc đáo: sự hôn phối giữa phương pháp giả định huyễn tưởng và phân tâm học tạo nên hiệu ứng hư thực xen kẽ, nhưng vẫn rất tách bạch trong nhận thức.

Trong tập thơ này, “Phút 89” chỉ là cái tựa, không hề xuất hiện trong thơ. Dĩ nhiên, đó là tâm ý của Minh Đan, có thể trùng với cái ý tôi đã nói ở trên, có thể không. Nhưng tôi thấy rằng, “Phút 89” còn là một “thời điểm”, một “bước ngoặc” rất ý nghĩa với Minh Đan. Đó là một bước chuyển hóa của cái đẹp trong thơ Minh Đan, một thành tựu đáng tự hào của cô.

“Phút 89” và những tập thơ như vậy sẽ khiến một ai đó nói rằng “đáng lo cho thế hệ thơ trẻ Việt và thơ Việt trong tương lai” thấy rằng họ đã lo quá sớm, tôi tin thế!

Đó là cảm nhận của cá nhân tôi. Thôi thì, mời độc giả tự cảm nhận và đừng quên lời nhắn nhủ của tác giả: nhặt nhạnh vụn vặt quẳng đi/ bỗng dưng cây đẹp như khi đâm chồi (Đánh thức), cùng với lời mời mà bạn sẽ nhận được khi bước vào khu vườn này: rót nhau rượu lòng thành thật/ môi tình đừng uống mông lung.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm
Đào Phong Lan “không thể nói lời từ biệt” với thơ!
Bài viết của Bảo Gia đăng trên tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 98, ngày 02/11/2023.
Xem thêm
Đò đầy vơi, bến cũ chẳng quên người!
Bài viết của PGS.TS Ngô Minh Oanh về tập thơ Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thế sự trong Sóng đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Sóng đời của Trần Ngọc Phượng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023.
Xem thêm
Khi văn chương tấn công văn hóa bản địa…
Người viết sử - Truyện ngắn của Nguyễn Trường, lần đầu tiên đề cập đến hậu quả của tác phẩm văn học.
Xem thêm