TIN TỨC

Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-17 20:57:01
mail facebook google pos stwis
1396 lượt xem

Hà Thanh Vân

Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!

 

Văn học Nga đã có mặt ở Việt Nam trong những năm trước 1945

Văn học Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX nằm trong tiến trình hiện đại hóa, trong đó phần tiếp thu văn học Phương Tây, mà cụ thể là Pháp chiếm vai trò quan trọng, cũng như những ảnh hưởng mang tính truyền thống từ văn học Trung Quốc. Do vậy, những tác phẩm văn học Nga đến với độc giả Việt Nam thời kỳ này  chủ yếu là thông qua bản dịch tiếng Pháp và tiếng Trung. Một số độc giả có trình độ thì đọc qua bản dịch bằng ngôn ngữ khác, nhưng cũng có những bản dịch tiếng Việt. Theo dịch giả Thúy Toàn, sự tiếp xúc đầu tiên của người Việt Nam đối với văn học Nga có thể là sự kiện gặp gỡ giữa vua Hàm Nghi và nhà văn nữ kiêm dịch giả Nga Tatiana Lvovna Shchepkina-Kupernik vào đầu thế kỉ XX tại đất nước Algeria khi ấy là thuộc địa của Pháp. Sau đó, nhà văn Tatiana Lvovna Shchepkina-Kupernik đã cho ra mắt chùm truyện kí mang tên “Những lá thư từ phương xa”, đáng kể nhất là trong đó có truyện ngắn “Hoàng tử Lý Tông” với nhân vật chính là vua Hàm Nghi. Cũng trong những năm đầu thế kỷ XX, khi làm thợ ảnh tại Paris, Nguyễn Ái Quốc đã đọc đã đọc tác phẩm của Lev Tolstoy và tự nhận mình là “người học trò nhỏ” của đại văn hào Nga. Huỳnh Thúc Kháng khi làm báo “Tiếng dân” đã cho in bản dịch tác phẩm “Phục sinh” của Lev Tolstoy từ số 9 ra ngày 10/8/1927 đến số cuối cùng ra ngày 30/5/1928.

Bên cạnh đó, cũng có những nhà văn Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn học Nga, từ đó mô phỏng, sáng tác thành tác phẩm văn học của bản thân. Có thể kể đến Hồ Biểu Chánh với tác phẩm “Người thất chí” phóng tác “Tội ác và hình phạt” của Fyodor Dostoevsky hay Vũ Bằng viết tác phẩm “Em ơi đừng tuyệt vọng” phóng tác “Đêm trắng” cũng của Fyodor Dostoevsky… Ngoài ra cũng phải kể đến tư tưởng văn nghệ Marxist của Nga đã ảnh hưởng rõ rệt thông qua các bài viết của Hải Triều và nhóm chủ trương “nghệ thuật vị nhân sinh” trong thập niên 30 của thế kỷ XX.

Văn học Nga được giới thiệu cả ở miền Bắc và miền Nam trong giai đoạn 1945 – 1975

Sau năm 1945, có thể nói là thời hoàng kim của văn học Nga ở Việt Nam. Do tình hình chính trị, xã hội cũng như sự giao lưu văn hóa, giáo dục, văn học Nga nhanh chóng trở thành dòng chủ lưu trong những nền văn học nước ngoài được dịch ở Việt Nam, đặc biệt kể từ khi Hiệp định hợp tác văn hóa Xô – Việt được kí kết vào năm 1957. Trước đó trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954, văn học Nga đã được chú ý dịch nhiều ở Việt Nam, trong đó phải kể đến hiện tượng bài thơ “Đợi anh về” của Konstantin Simonov được Tố Hữu dịch qua bản tiếng Pháp vào khoảng năm 1949 và nhanh chóng trở thành bài thơ yêu thích của nhiều độc giả.

Gọi giai đoạn này là thời kỳ hoàng kim của văn học Nga ở Việt Nam bởi lẽ bên cạnh sự gần gũi về hệ tư tưởng và tương đồng về thể chế chính trị, việc Liên Xô giúp đỡ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục đào tạo, đã hình thành một lớp dịch giả xuất sắc và những nhà Nga học có tên tuổi. Đó là Đoàn Tử Huyến, Thúy Toàn, Thái Bá Tân, Nguyễn Đăng Bảy, Phạm Vĩnh Cư, Vũ Thế Khôi, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Hải Hà, Phan Hồng Giang, Đào Tuấn Ảnh, Ngân Xuyên… Việc tiếng Nga được giảng dạy rộng khắp trong môi trường phổ thông và đại học ở miền Bắc cũng tạo một môi trường rộng lớn và điều kiện để hình thành nhiều thế hệ yêu văn học Nga. Mặt khác, phải kể đến tình yêu văn học Nga của rất nhiều độc giả. Đó là thứ tình yêu tự nguyện, xuất phát từ niềm tin và lý tưởng về một nước Nga đẹp đẽ, là bạn của Việt Nam. Vì vậy, hầu hết những tác phẩm kinh điển của văn học Nga với những tên tuổi như  Aleksandr Pushkin, Mikhail Lermontov, Ivan Turgenev, Lev Tolstoy, Fyodor Dostoievsky, Nicolay Gogol, Anton Chekhov, Marxim Gorky, Sergey Yesenin, Ivan Bunin… đã được dịch và thời hoàng kim này kéo dài đến tận những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.

Văn học Nga thời Xô Viết và dòng văn học viết về chiến tranh cũng đặc biệt được chú trọng dịch ở Việt Nam. Sự hy sinh, tinh thần cao cả chiến đấu vì tổ quốc, lòng nhân ái, tình yêu thương con người trong những tác phẩm của văn học Nga Xô Viết đã khiến cho độc giả Việt Nam tâm đắc và nhiều tác phẩm đã trở thành sách gối đầu giường của nhiều thế hệ, trong đó phải nói đến tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy” của Nicolay Ostrovsky và các tác giả như Vladimir Mayakovsky, Mikhail Solokhov, Yuri Bondarev, Boris Polevoy…

Không chỉ thu hút độc giả Việt Nam bởi tính chất sử thi và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, văn học Nga còn được lòng công chúng Việt bởi những tác phẩm mang sắc thái lãng mạn, trữ tình, trong trẻo với những nhà văn, nhà thơ như Konstantin Paustovsky, Olga Berggolts, Anna Akhmatova… Đặc biệt, văn học thiếu nhi Nga được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam với những tác phẩm đi vào ký ức đẹp một thời của công chúng như “Cánh buồm đỏ thắm” của Aleksei Grin, “Timur và đồng đội” và “Số phận chú bé đánh trống” của Arkady Gaidar, “Chiếc chìa khóa vàng hay chuyện li kỳ của Buratino” của Aleksei Tolstoy…

Cũng trong giai đoạn 1945 – 1975, ở phía miền Nam, văn học Nga vẫn được dịch và giới thiệu tuy không nhiều. Điều này cho thấy các độc giả miền Nam thời đó vẫn có sự quan tâm đến văn học Nga. Những dịch giả như Nguyễn Hiến Lê, Tràng Thiên (tức là nhà văn Võ Phiến), Thạch Chương, Vũ Đình Lưu, Đỗ Khánh Hoan… đã dịch nhiều tác phẩm kinh điển của văn học Nga thường thông qua một ngôn ngữ thứ hai như tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Một so sánh cho thấy trước năm 1975, tại miền Nam đã dịch tác phẩm của cả bốn nhà văn Nga đoạt giải Nobel Văn học là Ivan Bunin (1933), Boris Pasternak (1958), Mikhail Sholokhov (1965) và Aleksandr Solzhenitsyn (1970), trong khi cũng ở giai đoạn này miền Bắc Việt Nam chỉ dịch tác phẩm của Mikhail Sholokhov. Có lẽ công chúng có nhu cầu đọc văn học Nga để hiểu thêm về một đất nước bị xem là “bên kia bức màn sắt” và như một món ăn tinh thần lạ.

Văn học Nga từ sau 1975 ở Việt Nam: bức tranh nhiều màu sắc

Sau 1975, việc dịch văn học Nga ở Việt Nam tiếp tục được nối dài với một loạt tác phẩm, đặc biệt là sau thời kỳ cải tổ (perestroika) của Nga và cái mốc đổi mới năm 1986 của Việt Nam. Một loạt những tác phẩm từng bị cấm xuất bản ở Nga đã được nhanh chóng dịch sang tiếng Việt, chẳng hạn như “Bác sĩ Zhivago” của Boris Pasternak, “Những đứa con phố Arbat” của Anatoli Rybakov, “Nghệ nhân và Margarita” của Mikhail Bulgakov và những truyện ngắn của Ivan Bunin… Công chúng háo hức đón nhận những tác phẩm này từ sự mới mẻ, cũng như những điều cấm kỵ ngày trước. Lúc này văn học Nga vẫn là dòng chủ lưu của những nền văn học nước ngoài được giới thiệu ở Việt Nam.

Sau thời kỳ hậu Xô Viết, còn lại Liên bang Nga và từ đó mối quan tâm đến văn học Nga sút giảm vì nhiều lẽ: Tiếng Nga không còn là ngoại ngữ chính và được dạy nhiều như trước, sự giao lưu văn hóa, giáo dục cũng không còn nhiều. Những tác phẩm kinh điển, nổi tiếng của văn học Nga hầu như đã được dịch ở Việt Nam, nhưng văn học đương đại Nga thì ít người quan tâm. Tình trạng này kéo dài từ thập niên 90 của thế kỷ XX sang đến những năm đầu thế kỷ XXI. Nhưng sự trầm lắng này đã có những dấu hiệu khởi sắc hơn. Năm 2012 Quỹ hỗ trợ quảng bá văn học Việt Nam – văn học Nga ra đời, trực thuộc Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó đến nay, nhiều tác phẩm đương đại của văn học Nga được dịch và giới thiệu ở Việt Nam. Ngoài thế hệ dịch giả cao niên, hiện nay có thêm một đội ngũ các dịch giả trẻ và sung sức hơn như Trần Thị Phương Phương, Phan Xuân Loan, Thiên Lương, Lê Hải Đoàn…

Văn học Nga trong nhiều thế kỷ qua luôn là một nền văn học lớn. Do những đặc thù về tình hình chính trị, xã hội, công chúng Việt Nam đã được biết đến văn học Nga từ rất sớm. Cho đến ngày nay, dẫu qua nhiều thăng trầm của lịch sử, văn học Nga vẫn ghi dấu ấn đậm nét trong lòng độc giả Việt Nam với những tác phẩm kinh điển liên tục được tái bản và những tác phẩm mới được dịch của thời đương đại.

H.T.V/ Báo Dân Việt

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm