- Lý luận - Phê bình
- Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Tôi may mắn có duyên được chuyển lời tiếng Anh cho ca khúc Miền Nhớ từ chính bài thơ cùng tên của thi sĩ – nhạc sĩ Huỳnh Khang. Bài thơ thật đẹp, chỉ cần đọc đôi lần, ta có thể thuộc lòng và khe khẽ ngân nga trong niềm vui. Và giờ đây, tuyển tập mang tên MIỀN NHỚ ra đời, như một dấu ấn trong hành trình thơ Việt tìm về nguồn cội, chuyên chở nỗi niềm của người con xứ Nẫu – Phú Yên. Giữa nhịp sống hối hả của đô thị hóa, Miền Nhớ mở ra một khoảng không gian bình dị, nơi có cánh đồng, sông nước, và tình quê đong đầy mộc mạc. Ấn tượng đầu tiên đọng lại là giọng thơ chân chất, trong trẻo mà vẫn dày dặn, vững vàng – giọng thơ của một người đã trưởng thành qua trải nghiệm. Mỗi bài thơ như một làn gió mát thổi qua cánh đồng, mang theo hương rơm rạ và nét duyên dáng mượt mà của dòng sông Ba thân thương.
Nhà thơ Huỳnh Khang và nhà thơ, dịch giả Võ Thị Phương Mai.
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường. Giọng thơ Huỳnh Khang vừa đậm dấu ấn cá nhân vừa chạm tới cảm xúc chung, bởi có ai mà chưa từng thổn thức trước mùi rơm rạ nồng nàn, gió nồm thoảng qua hay vệt nắng cuối chiều. Đó là nỗi nhớ về những bữa cơm mẹ nấu, lũy tre làng, con nước dâng mùa lũ; là những đêm mẹ thức trắng chờ con trở về, lời ru ấm áp, láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau. Đó là vùng đất từ thuở hồng hoang, đom đóm đêm hè, chim cuốc gọi đàn. Đó là những khắc khoải của tình yêu và kết thúc thinh lặng trong cô đơn da diết. Đó là mùi vị của cuộc sống – nửa đời lầm lỡ, một mình dấn thân, nhưng vẫn đầy trân quý và xúc động.
Phong cách và ngôn ngữ thơ Huỳnh Khang không hẳn mới lạ, nhưng lại đủ duyên để cuốn hút người đọc, đủ chân thành để gợi trong ta niềm yêu thương và trân quý qua những hình ảnh thân thuộc mà giàu sức gợi: đàn cò trắng chao nghiêng, khói rơm quấn mây, đom đóm lập lòe nơi quê nhà. Vẫn là những thủ pháp tu từ quen thuộc như điệp ngữ, đối lập, ẩn dụ; vẫn là nhịp điệu thân gần của thơ tự do, của lục bát, tứ tuyệt mang âm hưởng dân ca; vẫn là lối viết vừa ngẫu hứng, bộc trực, vừa khi trầm tư, hoài niệm, gieo vần tinh tế. Và cũng chính ở đó, thơ mở ra những tầng ngữ nghĩa để mỗi lần đọc lại, người ta lại tìm thấy một dư vang mới. Sự chuyển tiếp tự nhiên giữa các mảng thơ tạo nên dòng chảy liền mạch: từ hoài niệm dạt dào đến suy ngẫm lắng sâu. Đã có nhiều người làm thơ theo hướng này, nhưng dường như người đọc vẫn chưa bao giờ thấy chán, bởi cái duyên và cái tình trong thơ Huỳnh Khang luôn biết cách giữ chân người thưởng thức.
Tuy không được chia thành các chương rõ ràng, tuyển tập vẫn có thể tạm phân thành những mạch, những nhánh như dòng sông của hoài niệm dạt dào chảy hòa với suy ngẫm trầm tĩnh. Quá khứ giản dị rưng rưng hiện lên, trân trọng những điều bình thường trong cuộc sống, khiến lòng ta lắng xuống, tự vấn về cội rễ, tình thân và sự kết nối giữa con người với thiên nhiên. Dư âm của rạ rơm, con đường làng, những câu chuyện ông bà, cha mẹ kể vẫn còn đọng lại trong tâm trí như lời nhắc nhở tìm về nguồn cội. Khi gấp lại trang cuối cùng, ta cảm nhận được sự nhẹ nhàng, bình yên, như một chuyến du hành trở về quê hương, để tìm thấy sự thanh thản và kết nối sâu sắc với những thi ảnh gần gũi, thân thuộc.
Không mới, không lạ, nhưng vẫn thật hay. Cái hay đầu tiên nằm ở chủ đề quê hương, đất nước – một mạch nguồn mà biết bao thi sĩ đã từng viết, từng nói, từng bày tỏ. Những câu thơ trong MIỀN NHỚ nghe gần gũi, dễ thuộc, nhưng lại mang một chất riêng, chưa ai từng viết theo cách này. Điều tưởng chừng giản đơn ấy thực ra không hề dễ dàng: nếu viết thiếu tinh tế, dễ trùng lặp; nếu viết không gọn, dễ gây nhàm chán. Trong khi nhiều thi sĩ đi theo con đường cách tân, tìm tòi lạ lẫm, thử nghiệm đủ kiểu để “đãi cát tìm vàng”, thì Huỳnh Khang vẫn vững vàng đi dọc theo cánh đồng, hoà mình vào dòng sông – đơn giản mà sâu lắng, bình dị mà trọn vẹn.
Trong khổ thơ về mẹ, Huỳnh Khang không vẽ ra ý tưởng mẹ con mới lạ, nhưng chính sự giản dị chắt lọc khiến câu chữ bừng sức sống. Chỉ qua hai câu “Suốt đời mẹ đã cả lo: / Lo con, lo cháu… ấm no mẹ mừng”, ta đã hình dung trọn vẹn một đời mẹ lặng lẽ hy sinh, nước mắt và nụ cười đan vào nhau bên bếp lửa quê nhà. Sang đến “Một đời quên mất tuổi xuân, / Quay đi, ngoảnh lại… bát tuần đã qua”, mốc thời gian dài đọng lại trong ba chấm ngắn ngủi tinh tế, gọi về bao mùa xuân héo úa không tiếng than. Khi người con trở về ngủ tại nhà, chỉ một tiếng ho lúc đục, lúc trong vang lên giữa đêm thanh đã đủ khiến lòng xốn xang nặng trĩu như sông lũ về, như thể nỗi nhọc nhằn của mẹ dồn cả vào từng hơi thở. Như vậy, thấy được ở đây sức mạnh của một giọng thơ bình thản mà sâu lắng: không cần hình thức cách tân, chỉ với ngôn từ gần gũi nhưng giàu ẩn dụ, Huỳnh Khang vẫn tạo nên những phản chiếu cảm xúc mới mẻ trên mạch nguồn thi ca về mẹ.
Đoạn thơ “Ta nay đã nửa cuộc mình…” là tiếng lòng chân thật của những phận người lấm lem bùn đất, đã trải nửa đời bôn ba mà vẫn giữ trọn tình quê hương. Ngôn từ mộc mạc dẫn ta về với cánh đồng, con sông thân thuộc của từng hạt phù sa đọng lại. Cách tác giả khéo đặt dấu chấm lửng ngay giữa “Chữ tình tròn, méo khéo là… trêu ngươi” hay “An yên là… mừng!” như để nhường chỗ cho bao suy tư, bao dư âm còn sót lại trong lòng người. Dẫu chủ đề về nửa đời người, nỗi nhọc nhằn, khát khao bình yên không mới lạ, mỗi câu mỗi chữ vẫn rạo rực sức sống bởi sự tinh giản, gọn gàng, khiến ta lặng ngắm lại hành trình của chính mình và thấy yêu quý từng khoảnh khắc bình dị nhất.
Điểm đặt biệt thứ hai, vì Huỳnh Khang cũng sáng tác nhạc và một số bài thơ do chính anh phổ nhạc trở nên vô cùng phổ biến như CHỈ NỤ CƯỜI EM THÔI, MIỀN NHỚ, và nhiều sáng tác khác khi đọc lên đã tự khắc đầy nhạc điệu. Trong khổ thơ về Sông Hinh, điệp từ “nghiêng” vang lên như một giai điệu lặp mà không đơn điệu, lúc vỗ nhịp êm ái, khi ngân vang sâu lắng như tiếng đàn bầu văng vẳng bên triền đồi kéo người nghe, người đọc bước vào khúc nhạc đồng quê mênh mang. Ở đây thơ và nhạc không còn biên giới: mỗi nhịp luyến láy trong câu chữ đều có thể cất lên thành một khúc tình ca, và chính khả năng phổ nhạc của tác giả đã giúp người thưởng thức cảm nhận trọn vẹn nhịp điệu ấy ngay từ trang giấy.
Trong những vần thơ của Huỳnh Khang, hơi thở của đất quê đọng trong ruộng đồng, con đường làng, luỹ tre, hạt gạo. Ta cảm nhận được mùi nồng của phù sa sau cơn mưa đầu mùa, vị ngọt thoang thoảng của mạ non hé nụ trong buổi sớm mai, cả độ ấm còn sót lại trên bờ giậu khi nắng đã lên cao. Đó là hơi thở được nuôi dưỡng từ bao thế hệ cày bừa, gặt hái, từ những bàn tay chai sần đan vào hạt giống và ước mơ. Khi mường tượng từng thuổng xới, ta như nghe được tiếng lách cách vang lên giữa không gian tĩnh lặng, âm thanh của lao động đồng điệu với tiếng tim đất réo rắt. Đất ở đây không im lặng, mà lớn lên cùng lời ru của mạ, vươn mình dưới hơi nắng, cất giấu ký ức khói bếp, bến nước và những bước chân quen thuộc. Mỗi hạt cát, mỗi tảng bùn mang trong mình câu chuyện về những ngày nắng cháy, những buổi chiều mưa rả rích, và cả khát khao vươn lên giữa muôn trùng giông tố. Sống cùng hơi thở đất quê qua thơ Huỳnh Khang ta nhận ra một tình yêu giản dị mà mãnh liệt, nơi gốc rễ và cành lá luôn đan quyện kéo ta trở về với những giá trị thuở ấu thơ, với nỗi niềm nhớ thương mênh mang. Nghe hơi thở ấy là lắng nghe trái tim của mảnh đất chứa đựng niềm tin vững chãi về một tương lai được vun đắp từ lòng hiếu khách và sức sống bất tận. Hơi thở đất quê trong thơ là cảnh sắc và trách nhiệm cũng như tình thương với mảnh đất mình đang sống, gìn giữ và trao truyền hơi ấm của cội nguồn cho thế hệ mai sau.
"Về quê ra ngủ ngoài hiên
Nghe con chim cuốc liên miên gọi bầy
Côn trùng rả rích quanh đây
Chiếu chăn trăng chiếu và đầy ánh sao".