TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Khảo nghiệm thẩm mỹ”: Chất trữ tình, nét chấm phá nữ quyền, tính tinh tế bẩm sinh qua ba bài “tình thi” của nữ sĩ Trần Mai Hường

“Khảo nghiệm thẩm mỹ”: Chất trữ tình, nét chấm phá nữ quyền, tính tinh tế bẩm sinh qua ba bài “tình thi” của nữ sĩ Trần Mai Hường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-11-27 21:30:21
mail facebook google pos stwis
642 lượt xem

TUẤN TRẦN

Trần Mai Hường dùng ngày rộng tháng dài chỉ để yêu và được yêu. Tiếng thơ đó nâng đỡ cho đời và người nên đẹp và nhã, say đắm và lặng lẽ… dạt dào và đong đầy mật hoa. Thơ chị ở lại thời thiếu nữ đầy mộng mơ mà tràn dư những trận mưa tình ngọt ngào, êm say, có lúc cuồng quyến, dâng động.

Điều đặc biệt ở đây là cách tinh tế thắt bện “sợi tình tơ nghĩa” để luôn đứng giữa lằn ranh hiện đại và hậu hiện đại. Không nghiêng về phía nào. Không khí đương đại và tinh thần nữ tính trữ tình luôn đằm thắm, mượt mà, nhuốm đọng mà vuốt dịu cho những dòng thơ trở nên thơ mà cũng rất con người/ thật đàn bà… Tôi nhìn và nhận thơ chị, thật hay ở mảng viết cho anh, cho em và cho tình đời, tình người.


Nhà thơ Trần Mai Hường

Dùng anh để nghiệm đời, để chiêm ngắm thế thái nhân tình. Trần Mai Hường luôn ý thức sâu sắc về vai trò “thiếu phụ”. Luôn có cái cân nhắc, khiêm nhường và cái bản chất “hậu phương” của người nữ theo kịch nghệ Á Đông. Dẫu đang thời điểm em như “ngọc biếc”, “bừng men” và hiểu thấu lòng đời cũng như đã phơi trải tấm thân này, trái tim này: “Này anh này anh, này anh” cho bao cuộc lật trở tìm yêu ở đời.

Nghiệm riêng để thấu lòng chung, để hiểu về được mất/ thắng thua. Và em khi với anh sẽ “tự thua” bởi suy cho cùng thượng đế tạo ra em bằng sườn anh. Em là “đồ chơi” của anh nhưng cũng là một phần sự sống thiêng liêng trong anh… Suốt đời em đi tìm “nghiệm riêng” nhưng đồng quy vào anh mới ra lẽ chung- riêng.

Khi nói về anh, em và để nghiệm sinh và nghiệm mình giọng thơ Trần Mai Hường rất tế vi và “ngọa ngôn”. Mọi sự khiêm nhường đều có chủ đích, mọi lời nhẹ nhàng đều ẩn tàng sự “táo tợn”. Bọc trong cái nữ tính là “quyền lực” thần bí nơi trái tim em. Trái tim có thể “bắt anh” phải ngả nghiêng nhưng em không diễn đạt và phô bày hết cái tiềm tàng vạn năng trong tình em mà đằm dịu, mà ngọt nhạt mà nên hương vị của tình yêu và sự hi sinh, cùng lòng bao dung, độ tha lớn lao cho anh. Em là người phụ nữ của hôm nay đẹp như ru lòng anh vào cõi mộng.

 

Suốt đời tìm một nghiệm riêng

Em mang đánh cược những thiêng liêng mình

 

Này anh này anh này anh

Hãy lên ngọc biếc cho xanh âm thầm

 

Cho thôi chốt cửa, lặng câm

Tự thua em sẽ tự cầm cố em

 

Cho thôi hoá thạch. Bừng men

Cho mây quỳ gối bên thềm chung chiêng

 

Bao giờ tìm được nghiệm riêng

Em thôi xúc xắc với duyên phận mình...

                        (Nghiệm riêng)

"Chỉ cần anh thấu đủ/ em đã thừa bão giống" là cái mà chủ thể trữ tình đã "nghiệm": Sau một đời yêu về trên mái tóc, bờ môi, hương thơm bàn tay... em lục lại bao "mịn thơm" quá khứ "Tận sâu lặng thinh anh""sâu tận hững hờ em".

"Lặng thinh", "hững hờ" thuộc về miền "đất thiêng" của tình yêu. Nơi đó không còn những hờn hận, mãnh liệt của buổi ban đầu mà đi vào trầm mặc nhìn lại một thời tình đã từng lên ngôi. Nay đã qua mùa giông bão tình lắng lại nơi tận bể sâu mà không cần thể hiện ra nữa. Ta đã trở về với "quan ái" im vắng bọc vây trong một lý trí biết buông neo và tha thứ. Cảm tưởng về giai điệu "Tình ta như dòng sông/ đã qua mùa giông bão"... Thơ Trần Mai Hường khi viết về anh và em luôn có kết nối, kế thừa với nữ sĩ Xuân Quỳnh nhưng với giọng điệu giăng tỏa, cô nén, chất chứa và run ngân hơn.

Trần Mai Hường đã đưa không khí đương đại tràn ngập trong thơ. Cõi yêu của trời nay khác với thời xưa luôn dùng tấm liệm chứa chan phủ lên bao nhẹ nhàng lưu luyến. Luôn thấy "cá tính tình yêu mạnh mẽ", cái "nghiệm riêng", cái khác biệt, cái "di hài của trái tim" yêu mạnh mẽ và bền bỉ trong tấm lòng tha thiết, trong đẹp vô ngần. Ở đây ta thấy được cái "chừng mực", "vừa đủ" trong dung nhận quá khứ và tiếp nhận hiện tại của một giọng thơ luôn lý trí và không lẫn vào đâu được.

 

Tận sâu lặng thinh anh

những phiêu bồng ủ lửa

Sâu tận hững hờ em

mùa thương vừa ngậm sữa

 

Bao mịn thơm quá khứ

dệt muôn sắc cầu vồng

Chỉ cần anh thấu đủ

em đã thừa bão giông...

                (Với anh)

Chính vì cái "chừng mực" những khoảng "lưng chừng", cách đo lường ước lệ với tình anh, tình em, tình đất và người đó mà tiếng thơ chị chẳng bao giờ hết "thắc mắc", "mơ tưởng" luôn tự tạo ra không gian "tâm tưởng" đầy những hỏi han, "chừa" ra một lối, những khoảng trống quay cuồng chẳng cần phân định lối ra để em luôn được "trách móc", như cái cớ để "dan díu".

 

Xếp hàng trong điện thoại em

Là bao mê đắm ngọt mềm - ngày xưa...

 

Mình thiêu thân đã đủ vừa

Bao nguy nga cũ

Xin chừa lối thương

 

Dòng tin một thuở lừng hương

Lại toan tà nghịch

Lại dường như im

 

Lại - em - sấp - ngửa - nổi - chìm

Bơi trong sóng chữ biết tìm đâu phao...

 

Đừng anh

Đừng vỗ về nhau

Hạ huyền

Em đợi chân cầu

Được không?

                      (Xin chừa lối thương)

Rõ ràng không phải xếp hàng trong thư tình hay thơ tình mà là "điện thoại"_bối cảnh của hiện đại. Ta thấy hiện ra: ảnh, hình, tình, có ngôn ngữ của những tin nhắn yêu đương thấm đượm. Thậm chí cả những "video clip" ái và yêu nâng niu và vỗ về. Một câu thơ ngắn thi nhân đã phơi kịch bao thi vị của tình yêu. Gắn thiết với cuộc sống số hóa hôm nay, cách yêu của anh và em cũng được lưu đặt mã hóa trong biểu tượng của "vũ trụ": “điện thoại".

"Mình thiêu thân đã đủ vừa" là lời nhắc anh về "ái tình là rượu ngọt nhưng uống quá nhiều sẽ say độc"? Ý thơ mang tính "nhắn nhủ" mà lại "gợi cảm" và "khêu khích". Thật hay cho cách xếp đặt câu chữ, "ngụy ngôn" vô cùng cho cái khát khao "nửa chính, nửa tà". Em quá "đa sự" đưa anh vào "cùng cốc" của tình yêu cuồng ảo... lạc vào ánh mắt đó, cơn say theo suốt đời.

Sau tất cả em vẫn muốn "hư" chờ anh nơi "chân cầu" lúc "hạ huyền": "Hạ huyền" là "mật ngôn tình yêu". Là từ em chưng cất trong "cõi riêng" nơi mình để nói cho anh và chỉ mình anh hiểu mà thôi...Trong cõi "Hạ huyền" đó em lần theo hương tình cũ mà tìm thấy anh sau bao ngày "bơi trong sóng chữ"…

Phải nói rằng thơ Trần Mai Hường là "mật thư của tình yêu". Như giọt ngọc rơi trên phiến lá, pha hương những giọt mật đầy, như nơi giọt mắt rơi em khóc và cười rồi tâm sự bao lời được mất. Tình anh và em đã từng hóa đầm lầy mặn chát bởi bao giọt lệ cay đắng nhưng em không chịu để thành dòng sông chết. Luôn ý thức khuấy đảo, bao dung, thấu hiểu, nâng niu, quý dữ cho trong lại vô ngần. Lối lựa lọc và xếp đặt câu chữ gần như chính xác tuyệt đối, trải nghiệm thơ chị thực sự tôi say mê đến muốn lên cơn sốt giảng đọc cho khôn cùng thiên hạ những tấm lòng yêu khát khao giảo hảo.​

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm