TIN TỨC

Tạ Ký, nỗi buồn ở lại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-23 11:17:05
mail facebook google pos stwis
2623 lượt xem

HUỲNH VĂN HOA

Thủ bút của Tạ Ký

 

1. Tạ Ký sinh năm 1928 (Mậu Thìn) tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là huyện Nông Sơn), tỉnh Quảng Nam.  Làng Trung Phước nằm trên hữu ngạn con sông Thu Bồn, là một vùng có nhiểu núi non, từ đây càng tiến về phía tây thì càng đi vào vùng rừng núi cao.  Phong cảnh vùng này hữu tình, đồi núi quê ông là nơi Bùi Giáng đã đi chăn dê, hai chàng thi sĩ đất Quảng xuất thân cùng một làng, thậm chí nhà ở cùng một xóm với nhau.

Tạ Ký làm thơ tử thuở còn học tiểu học cho mãi đến những năm cuối của đời mình. Cuộc đời Tạ Ký gắn liền với thơ, cũng như với việc dạy học. Năm 1970, Tạ Ký xuất bản tập thơ Su Li, đã đoạt giải thơ của VNCH, tập thơ thứ nhì Cô Đơn Còn Mãi ra đời năm 1973. 

Cuối năm 1978, Tạ Ký từ Sài Gòn đi về sống ở An Giang và đã qua đời trong cô độc tại đây vào tháng Ba năm 1979. 

Sau khi qua đời, an táng tại An Giang, sau đó thân hữu và gia đình cải táng, đưa về Nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, vào đúng ngày Thanh Minh, năm Tân Tỵ (ngày 5 tháng 4 năm 2001), nằm gần phần mộ Bùi Giáng, nhà thơ cùng quê, cùng thời, người mà từ thưở thiếu thời từng có những ngày cùng chăn dê nơi núi rừng Trung Phước, Trung Lộc, Cà Tang,...

Tạ Ký tin và yêu cuộc đời, bao giờ cũng nghĩ những điều tốt đẹp đối với người thân, bạn bè. Thơ ông bàng bạc thứ ngôn ngữ của tình yêu. Có cảm tưởng, trong thơ, tiếng nói chân thành, hồn hậu lẫn khuất tâm sự ẩn trong từng bài thơ. Con người ấy bao giờ cũng trung thực với người và với mình.

Trong đời, Tạ Ký có những ngày tháng hết sức buồn bã, nhất là vào những năm tháng cuối đời. Khi in Sầu ở lại, lấy ý từ một câu thơ của Huy Cận trong bài Bi ca: "Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài". Tập thơ như dự cảm một phía  trước gập ghềnh, bi thương, cay đắng. Chút tình chẳng ở lại lâu, đi mau quá ! Nỗi buồn ở lại, vương vấn trên những vần thơ sầu thương.

Cao Thế Dung nhận định về thơ Tạ Ký: Tạ Ký hiện diện như một nhà thơ của đau xót, trữ tình... Tạ Ký đứng riêng rẻ. Con đường ông đi cũng âm thầm như tiếng thơ ông song vẫn là sự lan rộng trong cái âm thầm yêu dấu của Quê Hương. Thơ ông đặc biệt Việt Nam (Văn học hiện đại, Thi ca và thi nhân, NXB Quần Chúng, Sài Gòn, 1969, trang 107, 108).

1. Tạ Ký và tâm tình quê hương

Thơ Tạ Ký trong giai đoạn đầu vào những năm cuối 40 đầu những năm 50, một thế hệ lớn lên từ sau 1945, mang tâm tình đất nước. Trên Giai phẩm Quảng Đà, 1972, bài thơ Gánh gạo qua đèo trong trẻo, đượm tình xứ sở. Những địa danh quen thuộc của Quế Sơn, Thăng Bình, Hòa Vang, những hình ảnh đèo cao, đá dựng, đêm dày ngủ núi, ánh lửa chập chờn, lũy tre xanh, trăng sáng ngập trời:

Trăng sáng đèo Le

Mây che Giảm Thọ

Dầu cho mưa gió

Không bỏ được đèo

Đường thì đá dựng cheo leo

Tình anh cả gánh anh trèo núi non

Thương nhau mấy dép cũng mòn

Nhớ nhau thức những đêm tròn gánh đi

 ... Gạo đi, nuôi chí căm hờn

Chừ đây gánh gạo quý hơn gánh vàng

Núi rừng che khuất Hòa Vang

Nơi nao  Phú Tứ xóm làng vắng hiu

Dừng chân mở gói cơm thiu

Uống sơ nước suối, sợ chiều đổ nhanh

Anh ở Quế Sơn

Anh ở Thăng Bình ...

Mỗi lần trong lệnh trong làng

Anh đi gánh gạo quên đàng xa xôi

Đêm nay trăng sáng ngập trời

Qua đèo gió lạnh quen hơi núi rừng.

Cũng như Tường Linh, Tạ Ký yêu làng quê Trung Phước với tình cảm sâu nặng. Những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi đầy thương nhớ đi vào thơ:

Trung Phướơi, sông sâu dài un khúc,

Tình cheo leo cao vút mt con đèo, 

Núi Chèo Bo vươn mình trong khói đc,

Hòn Cà Tang thương nh vng tình theo...

       (Trung Phước ơi)

Tạ Ký có những dòng thơ cảm động viết về mẹ, về quê hương. Hình ảnh người mẹ ở chốn quê, sống với lúa vàng, cau xanh, bao đêm thương nhớ con, có em Ngọc hàng xóm, sắp lấy chồng có sang chơi ? Cha vẫn ngâm nga khúc viễn hành ? Thương nhất những câu thơ chân chất, dân dã: 

Thu y cm tay m dn dò: 

Ph phường không phi d chi mô! 

Và đôi mt m rưng rưng l

Đôi mt bây gi chc héo khô! 
 

Thân nghèo nhiều lúc không vui lắm,

Nhưng chng bao gi con ước mong 

Mt cuc đi như thiên h ước, 

Bi vì còn chuyn đc hay trong. 
 

Nói mãi ri ra cũng thế thôi, 

Núi sông cách tr my năm ri, 

Con mong nếu bt thư này đượ

Thì m cho con biết ít li.

         (Thư gửi mẹ)

Xa quê, xuân về, lại nhớ mẹ, "đầu xuân con biết mẹ đang buồn". Chiến tranh, quê nghèo, nơi đó: Ra đi t do mùa cam chín / Đã my mùa cam con cha v /  Tóc m hoa râm, nay bc trng / Vô tình trước ngõ trng hoa lê /  Có nhng đêm bun con phát khóc,  / Nh xưa tết đến dy mai vàng / Tha hương thân bé còn lăn lóc /  Mi đ xuân v mi d dang / Quê nhà hoang vng ra sao m(Bức thư đầu xuân).

Cảnh giao thừa giữa phố phường đông đúc, một kẻ không nhà, xa xôi mòn gót nơi đất khách quê người, cảm thương thân phận: 

Thẩn thơ đón lạnh giữa đường

Núi xa trùng điệp, cố hương khuất rồi! 

                (Giao thừa giữa phố)

2. Tạ Ký, giai điệu trầm lắng

Dần về sau, Tạ Ký chọn hướng đi riêng, vừa mang tâm hồn phương Đông vừa thao thức những nỗi niềm thế sự. Các cung bậc tình yêu phả lên hồn thơ Tạ Ký những giai điệu trầm lắng.

Tạ Ký, cảm khái cuộc đời của những nhân vật trong Truyện Kiều: Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải.

Với Kiều, người con gái tài hoa bạc mệnh, có nhan sắc và tài năng hơn người nhưng phải chịu một cuộc đời truân chuyên, chìm nổi suốt mười lăm năm trường. Kiều là hiện thực của nỗi đau khổ khôn cùng của con người trong xã hội phong kiến. Số phận nghiệt ngã, đầy bi kịch, bất hạnh nối tiếp bất hạnh. Hạnh phúc ngỡ như đến với nàng, rồi vuột khỏi tầm tay.

Như bao thi sĩ khác, Tạ Ký đồng cảm với thân phận nàng Kiều qua bài thơ Đon trường gi li. Mười sáu câu thơ đẫm đầy nước mắt, gợi lại những năm tháng buồn bã của đời Kiều:

Bước chân nào nng phù du, 

Ngón tay nào tht su tư trói hn. 

Cô đơn ri vn cô đơn, 

Bn mươi thu đó đòi cơn đon trường.
 

Sông xa bãi cát vàng hanh,

Đìu hiu bến vng, mong manh sương chiu. 

Mười lăm năm gic mng vèo, 

Bn dây nh máu xuôi theo Tin Đường.
 

 T em ln la lu xanh, 

Cuc say đy tháng, tàn canh, vn tha.

Ch đây bên cnh người xưa, 

Na đêm tái ng nghe mưa cui tri.
 

Mà thôi, đàn kiếm giang h

Tr v cát bi, cơ đ ng nghiêng.

Say đến khóc, cười như điên, 

Ngàn xưa đng li mt thiên não người! 

Cái hay của bài thơ là những hình ảnh về cô đơn, là tiếng đàn rỏ máu, là dòng nước Tiền Đường, là thân trói lầu xanh, là cuộc say đầy tháng, là đêm mưa cuối trời khi gặp lại người xưa, là Từ Hải với đàn kiếm giang hồ, khóc cười điên đảo, cuối cùng, vẫn chỉ "một thiên bạc mệnh lại càng não nhân".

 Tạ Ký đồng cảm với đời Kiều, cũng say, cũng khóc. Tạ Ký - một cuộc đời cũng mong manh sương chiều, đìu hiu nơi bến vắng: Bn mươi thu đó đòi cơn đon trường. 

Với nhân vật Thúy Vân, Tạ Ký không đi về phía vẻ đẹp quý phái, hài hòa với thiên nhiên, "mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da". Ông nghiêng về những dòng đời bất hạnh của Thúy Vân. Chỉ bốn câu, ba dấu hỏi (ấy chi ? / làm gì ? ai ?), tạc dựng chân dung nàng:

Còn em chén cúc tàng tàng,

Cuc vui nói tiếng đon tràng y chi ? 

Thưa rng: cũng chng làm gì ? 

Ai mê dáng ch mà vì duyên em? 

     (Thúy Vân)

Những câu thơ cũng dự báo một cuộc sống không bằng phẳng, chẳng bình yên, thiếu hạnh phúc của Thúy Vân.

Còn đây là Từ Hải, nhân vật mà Nguyễn Du gọi "anh hào", "đại vương", "anh hung", "đấng anh hùng" và gửi gắm bao tình cảm vào con người dọc ngang, khí phách, ngang tàng, khẳng khái, nghĩa khí, đậm chất nghệ sĩ, khiến ta yêu, ta quý, đúng như nhà thơ viết:

Nghe rng dy la đao binh,

Đon trường ngay thu thân nghênh ca ngoài.

Mt trăng lơ lng non đoài, 

Mà hn lơ lng vi loài tho hoa

            (Từ Hải)

Thêm một lần Tạ Ký làm ta yêu hơn Từ Hải, một biểu tượng của ước mơ và hạnh phúc, của tự do và công lý, của mảnh trăng treo lơ lửng nơi non đoài, sáng một góc trời, cùng sánh với thảo hoa đầy hương sắc.

Có khi, ngẫm thân thế: Bể Nam chim chẳng theo chiều gió / Nhịp sóng trùng dương vẫn thở than, Tạ Ký nhớ Nguyễn Du: Bất tri tam bách… ngàn năm nữa  / Tiếng thở than còn nguyên thở than! / Một bước chân người qua trước cửa, / Rồi xa, xa mãi chẳng dư vang (Một mình). Có quá nhiều "tiếng thở than" trong một bài thơ ngắn. Lại có khi nhìn mình qua thân phận Kiều:

Mười lăm năm: một Kiều nhi, 
Ba mươi năm hỏi làm chi bây giờ? 
Tâm tình: lỗi một đường tơ, 
Thế tình: loạn giữa hai bờ lợi danh, 
Nhân tình: khi rách, khi lành, 
Thì trang tình sử lại đành dở dang. 

     (Thì trang tình sử…)

Cả tâm tình và nhân tình đều lỗi đường tơ, đều đành dang dở. Tạ Ký đồng cảm với Kiều, với Nguyễn Du, trải lòng qua từng trang tình sử.
 

3. Tạ Ký, nghĩa tình bằng hữu

Tạ Ký có nhiều bài thơ tặng bạn bè như tặng Cao Thế Dung (Dâng, Ngõ lạc), Thế Viên (Viết trang tình sử), Phạm Công Thiện (Anh cho em mùa xuân), Bùi Giáng (Dáng xưa), Cam Duy Lễ (Đếm sao), Huy Trâm (Bài thơ cuối mùa), Tôn Thất Trung Nghĩa (Buồn như, Em chỉ trả lời), Tạ Hồng Nguyện (Thư gửi mẹ), Hoài Khanh (Giao thừa giữa phố), Nguyễn Liệu (Thế hệ bốn lăm), Lê Sử (Lại một bài thơ tâm tình), Phổ Đức (Hẹn một ngày mai), Trương Đình Ngữ (Xuân về thương nhớ với ai đây?, ...

Thơ tặng bạn thể hiện tình cảm nồng ấm, chân tình. Trong các nhà thơ ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, Tạ Ký là nhà thơ có nhiều thơ tặng bạn. Thơ tặng bạn nằm trong truyền thống thi ca phương Đông. Đó là Hoàng Hạc lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch, Đông nhật hữu hoài Lý Bạch, Xuân nhật ức Lý Bạch của Đỗ Phủ, Đông dương tửu gia tặng biệt của Vi Trang, Nam hành biệt đệ của Vi Thừa Khánh, Hữu nhân dạ phỏng của Bạch Cư Dị, ...

Tạ Ký, qua thơ, dễ thấy rằng, thi sĩ đã phổ tâm tình của mình vào những không gian, cảnh vật như bài Tôn Thất Trung Nghĩa: Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu / Ly la-ve đổ gội đầu tóc xanh / Người sơn dã lạc kinh thành / Ngả nghiêng đáy cốc độc hành trong đêm. Bốn câu lục bát nói lên nỗi sầu ở buổi tóc xanh, như người hoang dã của núi rừng, lạc giữa kinh thành, một mình đi trong đêm, ngả nghiêng, chênh choáng đáy cốc.

Xuân về thương nhớ với ai đây? tặng Trương Đình Ngữ là bài thơ xuân đầy tâm trạng. Bài thơ  mở ra chân trời đầy nỗi niềm. Năm tháng dằng dặc những dang dở, giang hồ vẫn trắng đôi tay, đất trời ngày mai chỉ còn là cuộc hẹn, xuân vẫn còn xuân với đọa đày. Một câu chuyện tâm tình không biết tỏ cùng ai. Hiên người hoa lại nở. Năm tháng cầm bằng một cơn say. Không gian tâm tưởng. Thời gian tâm trạng, một mùa xuân:

Đâu đây nhc rót mng xuân mi, / Không hiu thương ai nước mt đy ! / Nhà trng tha h mơ mng đến / Tin đâu mua ly na cơn say / Thơ chng ai yêu, ri cũng vn / Đêm đêm nm tính chuyn tương lai / C tri dăm đa nghèo xơ xác / Ăn chc nm ch khp đó đây / Tán gu, cười suông, ngâm lc ging / “Sòng đi thua nhn c thơ ngây” / Thuc chưa hết điếu mà cay mt / Tình chng muôn đi vn đng cay / Xuân bng tưng bng trên má thm /  Xuân v thương nh vi ai đây ? 

Bài thơ cui mùa tặng Huy Trâm, một bài thơ tình, như tác giả viết: Không vui t do mi quen nhau / Ngày tháng bun tênh vn lướt qua, để rồi: Mùa cui, năm tàn, yêu na thôi ? / Kìa em, va thoáng ánh sao rơi / Đi khi lòng đt đưa tay đón /Ta s dn quên chuyn đi di. 

Thơ tặng bạn thường mang tâm trạng chia lìa, không gian ít khi hòa điệu với con người, tiêu biểu là Sầu ở lại. Chén rượu không vơi nỗi đoạn trường, ngồi bên nhau, vẫn dòng lệ chứa chan:

Đời lỡ nhúng sầu bên cốc rượu

Mượn vui bè bạn sống qua ngày

Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ

Cơm áo làm quên chuyện nước mây
 

Năm cùng tháng tận đời hoang vắng

Bên quán ngờ đâu lại gặp mầy

Gọi để mừng nhau khi hội ngộ

Thì xin hãy cạn chục ly đầy
 

Quàng vai tìm chút dư hương cũ

Nhắc đến hằng trăm chuyện đổi thay

Nhắc đến những thằng nay đã chết

Những thằng đang sống kiếp trâu cày
 

Bạn ơi nước mắt mình tuôn chảy

Ngồi nhậu bên đường ta khóc đây.

Chén rượu, ly rượu, hình ảnh thường thấy trong thơ Tạ Ký. Rượu đi đôi với sầu, với nỗi buồn: Buồn như ly rượu cạn / Không còn rượu cho say / Bun như ly rượu đy / Không còn mt người bn / Buồn như buồn như thế / Buồn như một kiếp người / Ðây cõi lòng quạnh quẽ / Buồn như đoá hoa rơi !” (Buồn như).

Có và không. Không và có. Rượu không vơi niềm cô đơn:

Có rượu nhiều không mà say đêm nay? 

Có tiếng giai nhân cười vang đường dài?

Cô đơn từng bước lê trong tối, 

Có hoa nào không mà anh đưa tay? 

              (Em chỉ trả lời)

4. Tạ Ký, những trang tình sử

Tạ Ký viết nhiều thơ tình. Như một Nguyễn Bính trong Chân quê, Tạ Ký trong Viết trang tình s, tặng Thế Viên, về tình cảm đối với cô gái Huế của "xứ mộng, xứ mơ",  thẹn thùng khi nhắc chuyện chồng con, nhưng rồi:

Giận mình chưa đạt lời nguyền, 

Anh không mong được chung thuyền ấy đâu. 

Khi mô người bỏ cau trầu, 

Cho anh biết đủ sầu lên men, 

Để anh vặn nhỏ ngọn đèn, 

Viết trang tình sử cùng tên một người.

Trong thơ, Tạ Ký bộc lộ tâm tình: “Hỡi Thượng Ðế, suốt đời con đơn chiếc,/ Ði vu vơ như lạc nẻo Thiên Ðường,/ Thân cát bụi chẳng còn chi hối tiếc,/ Nhưng lòng riêng khao khát chút Tình Thương.” (Đêm giáng thế). Nhà thơ mãi đi tìm… “Tôi biết nói gì khi ta quên nhau?/ Tôi biết muốn gì, trời còn mưa mau / Em vẫn là em, xưa kia tuy khác / Tôi hết là tôi, chừ đây cúi đầu / Tôi lại say rồi, ngả nghiêng, ngả nghiêng / Nhạc cuồng gào lên, nhạc cuồng không tên...” (Cúi đầu)

Ngày đầu của tình yêu, có suối biếc, có hoa rừng, có cỏ cây: Đó là ngày va mi được quen em. Rồi theo thời gian, những câu thơ thật buồn: Ngày mái tóc không còn xanh được nữa / Ngày đôi tay thôi dệt mộng phù hoa / Thì em sẽ vì anh mà mở cửa / Trông lên trời, đếm những điểm sao xa (Đếm sao). 

Trong tình yêu, Tạ Ký dự cảm những điều sẽ đến: Nước trong vt coi chng đau si cui / Em ca anh ch,  ai ca ngày mai / Trong tiếng gió, nghe chng hoa trách móc / Hương dù bay, lòng gió vn vương hương / Trong tiếng sui, nghe chng hoa mun khóc / Sui dù tuôn, hoa vn đp như thường(Đếm sao). Cớ gì có những ngôi sao xa xôi, ngồi đếm trong những ngày đang yêu !

Đọc kỹ thơ Tạ Ký, vẫn thấy nỗi niềm lắng trong những câu thơ, đầy tâm trạng. Giữa dòng vui cũng lắm câu buồn. Nỗi buồn thế sự phả vào chuyện tóc tơ:

Ta vẫn chờ em héo cả thơ, 

Đèn khuya đêm trắng nẻo tương tư.

Tóc tơ có kẻ ngàn năm hẹn, 

Ai hẹn ngàn năm chuyện tóc tơ? 
 

Từ thuở quen nhau, rồi cách biệt, 

Lòng nghe còn nặng chuyện tang thương,

Mà dâu bể dậy từ chinh chiến,

Từ thuở trên đầu tóc điểm sương.

Sơ nguyện, một bài thơ, một tình sử, tặng Tuyết Hồng, những đóa  tình ca mt thi xuân, song:

Mong manh mong manh, 

Nửa chiều sơ nguyện. 
 

5. Tạ Ký, đời không như thơ

Tạ Ký có tập Sầu ở lại, đúng như tiên cảm về cuộc đời. Đời không vui nên sầu ở lại. Tạ Ký là kiểu người phong trần, kiêu bạt, phóng túng, đậm chất Quảng. Khi đã tỉnh rượu, từng mảnh con hy vọng / chìm trong đêm sâu dày, thấy mình:

Có ai ngồi trong xó 

Hát khúc hoàng-hôn-ca? 

Tuy bóng chiều chưa đổ, 

Đầy những mặt dơi già! 

  (Khi tỉnh rượu)

Có một bài thơ mang chút ai oán, ngậm ngùi thân thế, bài có tên HOÀI, chỉ một chữ, chứa chan tâm trạng từ buổi còn mơ nguyệt mái Tây, rồi gió đổi chiều xoay hướng:

Từ dạo tay không mơ nghiệp lớn, 
Sử kinh qua một tiếng than dài! 
Trường thành vạn dặm rêu xanh đá, 
Thắng những ai mà bại những ai? 
Đình trưởng một phen trời ngó lại, 
Múa gươm trên mộ kẻ anh tài! 
Hỡi ơi những chuyện ngàn xưa ấy 
Chép miệng mà nghe thấm đắng cay!

 

Một giấc hoàng hoa chưa chắc tỉnh

Nửa ly hoan ngộ lấy gì say

Ai mài kiếm rỉ, ai nâng chén?

Cửa sổ chiều chiều mây trắng bay.
 

Có nỗi buồn lan tỏa trên nhiều câu thơ của Tạ Ký. Rượu không giải tỏa hết nỗi sầu: Ngày xưa dm liu xanh còn xanh/ Ngày xưa trang thư thêm trang tình / Ngày nay mt phút vô tư mt / Ngày nay mt phút bun mông mênh (Em chỉ trả lời, tặng Tôn Thất Trung Nghĩa)

Nhớ Tạ Ký, nhớ những câu thơ viết về quê quán cũ, xin chút nắng ấm, sưởi một linh hồn nho nhỏ:

Mùa hy vọng thắp đôi hàng nến đỏ,

Chép bài thơ thương nhớ giữa kinh thành.

Ôi yếu đuối một linh hồn nho nhỏ,

Chỉ mong ngày nắng ấm ngọn cau xanh.

 (Trung Phước ơi!)
 

Tháng 8 năm 2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm