TIN TỨC

Tạ Ký, nỗi buồn ở lại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-23 11:19:56
mail facebook google pos stwis
1767 lượt xem

HUỲNH VĂN HOA

Thủ bút của Tạ Ký

 

1. Tạ Ký sinh năm 1928 (Mậu Thìn) tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là huyện Nông Sơn), tỉnh Quảng Nam.  Làng Trung Phước nằm trên hữu ngạn con sông Thu Bồn, là một vùng có nhiểu núi non, từ đây càng tiến về phía tây thì càng đi vào vùng rừng núi cao.  Phong cảnh vùng này hữu tình, đồi núi quê ông là nơi Bùi Giáng đã đi chăn dê, hai chàng thi sĩ đất Quảng xuất thân cùng một làng, thậm chí nhà ở cùng một xóm với nhau.

Tạ Ký làm thơ tử thuở còn học tiểu học cho mãi đến những năm cuối của đời mình. Cuộc đời Tạ Ký gắn liền với thơ, cũng như với việc dạy học. Năm 1970, Tạ Ký xuất bản tập thơ Su Li, đã đoạt giải thơ của VNCH, tập thơ thứ nhì Cô Đơn Còn Mãi ra đời năm 1973. 

Cuối năm 1978, Tạ Ký từ Sài Gòn đi về sống ở An Giang và đã qua đời trong cô độc tại đây vào tháng Ba năm 1979. 

Sau khi qua đời, an táng tại An Giang, sau đó thân hữu và gia đình cải táng, đưa về Nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, vào đúng ngày Thanh Minh, năm Tân Tỵ (ngày 5 tháng 4 năm 2001), nằm gần phần mộ Bùi Giáng, nhà thơ cùng quê, cùng thời, người mà từ thưở thiếu thời từng có những ngày cùng chăn dê nơi núi rừng Trung Phước, Trung Lộc, Cà Tang,...

Tạ Ký tin và yêu cuộc đời, bao giờ cũng nghĩ những điều tốt đẹp đối với người thân, bạn bè. Thơ ông bàng bạc thứ ngôn ngữ của tình yêu. Có cảm tưởng, trong thơ, tiếng nói chân thành, hồn hậu lẫn khuất tâm sự ẩn trong từng bài thơ. Con người ấy bao giờ cũng trung thực với người và với mình.

Trong đời, Tạ Ký có những ngày tháng hết sức buồn bã, nhất là vào những năm tháng cuối đời. Khi in Sầu ở lại, lấy ý từ một câu thơ của Huy Cận trong bài Bi ca: "Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài". Tập thơ như dự cảm một phía  trước gập ghềnh, bi thương, cay đắng. Chút tình chẳng ở lại lâu, đi mau quá ! Nỗi buồn ở lại, vương vấn trên những vần thơ sầu thương.

Cao Thế Dung nhận định về thơ Tạ Ký: Tạ Ký hiện diện như một nhà thơ của đau xót, trữ tình... Tạ Ký đứng riêng rẻ. Con đường ông đi cũng âm thầm như tiếng thơ ông song vẫn là sự lan rộng trong cái âm thầm yêu dấu của Quê Hương. Thơ ông đặc biệt Việt Nam (Văn học hiện đại, Thi ca và thi nhân, NXB Quần Chúng, Sài Gòn, 1969, trang 107, 108).

1. Tạ Ký và tâm tình quê hương

Thơ Tạ Ký trong giai đoạn đầu vào những năm cuối 40 đầu những năm 50, một thế hệ lớn lên từ sau 1945, mang tâm tình đất nước. Trên Giai phẩm Quảng Đà, 1972, bài thơ Gánh gạo qua đèo trong trẻo, đượm tình xứ sở. Những địa danh quen thuộc của Quế Sơn, Thăng Bình, Hòa Vang, những hình ảnh đèo cao, đá dựng, đêm dày ngủ núi, ánh lửa chập chờn, lũy tre xanh, trăng sáng ngập trời:

Trăng sáng đèo Le

Mây che Giảm Thọ

Dầu cho mưa gió

Không bỏ được đèo

Đường thì đá dựng cheo leo

Tình anh cả gánh anh trèo núi non

Thương nhau mấy dép cũng mòn

Nhớ nhau thức những đêm tròn gánh đi

 ... Gạo đi, nuôi chí căm hờn

Chừ đây gánh gạo quý hơn gánh vàng

Núi rừng che khuất Hòa Vang

Nơi nao  Phú Tứ xóm làng vắng hiu

Dừng chân mở gói cơm thiu

Uống sơ nước suối, sợ chiều đổ nhanh

Anh ở Quế Sơn

Anh ở Thăng Bình ...

Mỗi lần trong lệnh trong làng

Anh đi gánh gạo quên đàng xa xôi

Đêm nay trăng sáng ngập trời

Qua đèo gió lạnh quen hơi núi rừng.

Cũng như Tường Linh, Tạ Ký yêu làng quê Trung Phước với tình cảm sâu nặng. Những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi đầy thương nhớ đi vào thơ:

Trung Phướơi, sông sâu dài un khúc,

Tình cheo leo cao vút mt con đèo, 

Núi Chèo Bo vươn mình trong khói đc,

Hòn Cà Tang thương nh vng tình theo...

       (Trung Phước ơi)

Tạ Ký có những dòng thơ cảm động viết về mẹ, về quê hương. Hình ảnh người mẹ ở chốn quê, sống với lúa vàng, cau xanh, bao đêm thương nhớ con, có em Ngọc hàng xóm, sắp lấy chồng có sang chơi ? Cha vẫn ngâm nga khúc viễn hành ? Thương nhất những câu thơ chân chất, dân dã: 

Thu y cm tay m dn dò: 

Ph phường không phi d chi mô! 

Và đôi mt m rưng rưng l

Đôi mt bây gi chc héo khô! 
 

Thân nghèo nhiều lúc không vui lắm,

Nhưng chng bao gi con ước mong 

Mt cuc đi như thiên h ước, 

Bi vì còn chuyn đc hay trong. 
 

Nói mãi ri ra cũng thế thôi, 

Núi sông cách tr my năm ri, 

Con mong nếu bt thư này đượ

Thì m cho con biết ít li.

         (Thư gửi mẹ)

Xa quê, xuân về, lại nhớ mẹ, "đầu xuân con biết mẹ đang buồn". Chiến tranh, quê nghèo, nơi đó: Ra đi t do mùa cam chín / Đã my mùa cam con cha v /  Tóc m hoa râm, nay bc trng / Vô tình trước ngõ trng hoa lê /  Có nhng đêm bun con phát khóc,  / Nh xưa tết đến dy mai vàng / Tha hương thân bé còn lăn lóc /  Mi đ xuân v mi d dang / Quê nhà hoang vng ra sao m(Bức thư đầu xuân).

Cảnh giao thừa giữa phố phường đông đúc, một kẻ không nhà, xa xôi mòn gót nơi đất khách quê người, cảm thương thân phận: 

Thẩn thơ đón lạnh giữa đường

Núi xa trùng điệp, cố hương khuất rồi! 

                (Giao thừa giữa phố)

2. Tạ Ký, giai điệu trầm lắng

Dần về sau, Tạ Ký chọn hướng đi riêng, vừa mang tâm hồn phương Đông vừa thao thức những nỗi niềm thế sự. Các cung bậc tình yêu phả lên hồn thơ Tạ Ký những giai điệu trầm lắng.

Tạ Ký, cảm khái cuộc đời của những nhân vật trong Truyện Kiều: Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải.

Với Kiều, người con gái tài hoa bạc mệnh, có nhan sắc và tài năng hơn người nhưng phải chịu một cuộc đời truân chuyên, chìm nổi suốt mười lăm năm trường. Kiều là hiện thực của nỗi đau khổ khôn cùng của con người trong xã hội phong kiến. Số phận nghiệt ngã, đầy bi kịch, bất hạnh nối tiếp bất hạnh. Hạnh phúc ngỡ như đến với nàng, rồi vuột khỏi tầm tay.

Như bao thi sĩ khác, Tạ Ký đồng cảm với thân phận nàng Kiều qua bài thơ Đon trường gi li. Mười sáu câu thơ đẫm đầy nước mắt, gợi lại những năm tháng buồn bã của đời Kiều:

Bước chân nào nng phù du, 

Ngón tay nào tht su tư trói hn. 

Cô đơn ri vn cô đơn, 

Bn mươi thu đó đòi cơn đon trường.
 

Sông xa bãi cát vàng hanh,

Đìu hiu bến vng, mong manh sương chiu. 

Mười lăm năm gic mng vèo, 

Bn dây nh máu xuôi theo Tin Đường.
 

 T em ln la lu xanh, 

Cuc say đy tháng, tàn canh, vn tha.

Ch đây bên cnh người xưa, 

Na đêm tái ng nghe mưa cui tri.
 

Mà thôi, đàn kiếm giang h

Tr v cát bi, cơ đ ng nghiêng.

Say đến khóc, cười như điên, 

Ngàn xưa đng li mt thiên não người! 

Cái hay của bài thơ là những hình ảnh về cô đơn, là tiếng đàn rỏ máu, là dòng nước Tiền Đường, là thân trói lầu xanh, là cuộc say đầy tháng, là đêm mưa cuối trời khi gặp lại người xưa, là Từ Hải với đàn kiếm giang hồ, khóc cười điên đảo, cuối cùng, vẫn chỉ "một thiên bạc mệnh lại càng não nhân".

 Tạ Ký đồng cảm với đời Kiều, cũng say, cũng khóc. Tạ Ký - một cuộc đời cũng mong manh sương chiều, đìu hiu nơi bến vắng: Bn mươi thu đó đòi cơn đon trường. 

Với nhân vật Thúy Vân, Tạ Ký không đi về phía vẻ đẹp quý phái, hài hòa với thiên nhiên, "mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da". Ông nghiêng về những dòng đời bất hạnh của Thúy Vân. Chỉ bốn câu, ba dấu hỏi (ấy chi ? / làm gì ? ai ?), tạc dựng chân dung nàng:

Còn em chén cúc tàng tàng,

Cuc vui nói tiếng đon tràng y chi ? 

Thưa rng: cũng chng làm gì ? 

Ai mê dáng ch mà vì duyên em? 

     (Thúy Vân)

Những câu thơ cũng dự báo một cuộc sống không bằng phẳng, chẳng bình yên, thiếu hạnh phúc của Thúy Vân.

Còn đây là Từ Hải, nhân vật mà Nguyễn Du gọi "anh hào", "đại vương", "anh hung", "đấng anh hùng" và gửi gắm bao tình cảm vào con người dọc ngang, khí phách, ngang tàng, khẳng khái, nghĩa khí, đậm chất nghệ sĩ, khiến ta yêu, ta quý, đúng như nhà thơ viết:

Nghe rng dy la đao binh,

Đon trường ngay thu thân nghênh ca ngoài.

Mt trăng lơ lng non đoài, 

Mà hn lơ lng vi loài tho hoa

            (Từ Hải)

Thêm một lần Tạ Ký làm ta yêu hơn Từ Hải, một biểu tượng của ước mơ và hạnh phúc, của tự do và công lý, của mảnh trăng treo lơ lửng nơi non đoài, sáng một góc trời, cùng sánh với thảo hoa đầy hương sắc.

Có khi, ngẫm thân thế: Bể Nam chim chẳng theo chiều gió / Nhịp sóng trùng dương vẫn thở than, Tạ Ký nhớ Nguyễn Du: Bất tri tam bách… ngàn năm nữa  / Tiếng thở than còn nguyên thở than! / Một bước chân người qua trước cửa, / Rồi xa, xa mãi chẳng dư vang (Một mình). Có quá nhiều "tiếng thở than" trong một bài thơ ngắn. Lại có khi nhìn mình qua thân phận Kiều:

Mười lăm năm: một Kiều nhi, 
Ba mươi năm hỏi làm chi bây giờ? 
Tâm tình: lỗi một đường tơ, 
Thế tình: loạn giữa hai bờ lợi danh, 
Nhân tình: khi rách, khi lành, 
Thì trang tình sử lại đành dở dang. 

     (Thì trang tình sử…)

Cả tâm tình và nhân tình đều lỗi đường tơ, đều đành dang dở. Tạ Ký đồng cảm với Kiều, với Nguyễn Du, trải lòng qua từng trang tình sử.
 

3. Tạ Ký, nghĩa tình bằng hữu

Tạ Ký có nhiều bài thơ tặng bạn bè như tặng Cao Thế Dung (Dâng, Ngõ lạc), Thế Viên (Viết trang tình sử), Phạm Công Thiện (Anh cho em mùa xuân), Bùi Giáng (Dáng xưa), Cam Duy Lễ (Đếm sao), Huy Trâm (Bài thơ cuối mùa), Tôn Thất Trung Nghĩa (Buồn như, Em chỉ trả lời), Tạ Hồng Nguyện (Thư gửi mẹ), Hoài Khanh (Giao thừa giữa phố), Nguyễn Liệu (Thế hệ bốn lăm), Lê Sử (Lại một bài thơ tâm tình), Phổ Đức (Hẹn một ngày mai), Trương Đình Ngữ (Xuân về thương nhớ với ai đây?, ...

Thơ tặng bạn thể hiện tình cảm nồng ấm, chân tình. Trong các nhà thơ ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, Tạ Ký là nhà thơ có nhiều thơ tặng bạn. Thơ tặng bạn nằm trong truyền thống thi ca phương Đông. Đó là Hoàng Hạc lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch, Đông nhật hữu hoài Lý Bạch, Xuân nhật ức Lý Bạch của Đỗ Phủ, Đông dương tửu gia tặng biệt của Vi Trang, Nam hành biệt đệ của Vi Thừa Khánh, Hữu nhân dạ phỏng của Bạch Cư Dị, ...

Tạ Ký, qua thơ, dễ thấy rằng, thi sĩ đã phổ tâm tình của mình vào những không gian, cảnh vật như bài Tôn Thất Trung Nghĩa: Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu / Ly la-ve đổ gội đầu tóc xanh / Người sơn dã lạc kinh thành / Ngả nghiêng đáy cốc độc hành trong đêm. Bốn câu lục bát nói lên nỗi sầu ở buổi tóc xanh, như người hoang dã của núi rừng, lạc giữa kinh thành, một mình đi trong đêm, ngả nghiêng, chênh choáng đáy cốc.

Xuân về thương nhớ với ai đây? tặng Trương Đình Ngữ là bài thơ xuân đầy tâm trạng. Bài thơ  mở ra chân trời đầy nỗi niềm. Năm tháng dằng dặc những dang dở, giang hồ vẫn trắng đôi tay, đất trời ngày mai chỉ còn là cuộc hẹn, xuân vẫn còn xuân với đọa đày. Một câu chuyện tâm tình không biết tỏ cùng ai. Hiên người hoa lại nở. Năm tháng cầm bằng một cơn say. Không gian tâm tưởng. Thời gian tâm trạng, một mùa xuân:

Đâu đây nhc rót mng xuân mi, / Không hiu thương ai nước mt đy ! / Nhà trng tha h mơ mng đến / Tin đâu mua ly na cơn say / Thơ chng ai yêu, ri cũng vn / Đêm đêm nm tính chuyn tương lai / C tri dăm đa nghèo xơ xác / Ăn chc nm ch khp đó đây / Tán gu, cười suông, ngâm lc ging / “Sòng đi thua nhn c thơ ngây” / Thuc chưa hết điếu mà cay mt / Tình chng muôn đi vn đng cay / Xuân bng tưng bng trên má thm /  Xuân v thương nh vi ai đây ? 

Bài thơ cui mùa tặng Huy Trâm, một bài thơ tình, như tác giả viết: Không vui t do mi quen nhau / Ngày tháng bun tênh vn lướt qua, để rồi: Mùa cui, năm tàn, yêu na thôi ? / Kìa em, va thoáng ánh sao rơi / Đi khi lòng đt đưa tay đón /Ta s dn quên chuyn đi di. 

Thơ tặng bạn thường mang tâm trạng chia lìa, không gian ít khi hòa điệu với con người, tiêu biểu là Sầu ở lại. Chén rượu không vơi nỗi đoạn trường, ngồi bên nhau, vẫn dòng lệ chứa chan:

Đời lỡ nhúng sầu bên cốc rượu

Mượn vui bè bạn sống qua ngày

Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ

Cơm áo làm quên chuyện nước mây
 

Năm cùng tháng tận đời hoang vắng

Bên quán ngờ đâu lại gặp mầy

Gọi để mừng nhau khi hội ngộ

Thì xin hãy cạn chục ly đầy
 

Quàng vai tìm chút dư hương cũ

Nhắc đến hằng trăm chuyện đổi thay

Nhắc đến những thằng nay đã chết

Những thằng đang sống kiếp trâu cày
 

Bạn ơi nước mắt mình tuôn chảy

Ngồi nhậu bên đường ta khóc đây.

Chén rượu, ly rượu, hình ảnh thường thấy trong thơ Tạ Ký. Rượu đi đôi với sầu, với nỗi buồn: Buồn như ly rượu cạn / Không còn rượu cho say / Bun như ly rượu đy / Không còn mt người bn / Buồn như buồn như thế / Buồn như một kiếp người / Ðây cõi lòng quạnh quẽ / Buồn như đoá hoa rơi !” (Buồn như).

Có và không. Không và có. Rượu không vơi niềm cô đơn:

Có rượu nhiều không mà say đêm nay? 

Có tiếng giai nhân cười vang đường dài?

Cô đơn từng bước lê trong tối, 

Có hoa nào không mà anh đưa tay? 

              (Em chỉ trả lời)

4. Tạ Ký, những trang tình sử

Tạ Ký viết nhiều thơ tình. Như một Nguyễn Bính trong Chân quê, Tạ Ký trong Viết trang tình s, tặng Thế Viên, về tình cảm đối với cô gái Huế của "xứ mộng, xứ mơ",  thẹn thùng khi nhắc chuyện chồng con, nhưng rồi:

Giận mình chưa đạt lời nguyền, 

Anh không mong được chung thuyền ấy đâu. 

Khi mô người bỏ cau trầu, 

Cho anh biết đủ sầu lên men, 

Để anh vặn nhỏ ngọn đèn, 

Viết trang tình sử cùng tên một người.

Trong thơ, Tạ Ký bộc lộ tâm tình: “Hỡi Thượng Ðế, suốt đời con đơn chiếc,/ Ði vu vơ như lạc nẻo Thiên Ðường,/ Thân cát bụi chẳng còn chi hối tiếc,/ Nhưng lòng riêng khao khát chút Tình Thương.” (Đêm giáng thế). Nhà thơ mãi đi tìm… “Tôi biết nói gì khi ta quên nhau?/ Tôi biết muốn gì, trời còn mưa mau / Em vẫn là em, xưa kia tuy khác / Tôi hết là tôi, chừ đây cúi đầu / Tôi lại say rồi, ngả nghiêng, ngả nghiêng / Nhạc cuồng gào lên, nhạc cuồng không tên...” (Cúi đầu)

Ngày đầu của tình yêu, có suối biếc, có hoa rừng, có cỏ cây: Đó là ngày va mi được quen em. Rồi theo thời gian, những câu thơ thật buồn: Ngày mái tóc không còn xanh được nữa / Ngày đôi tay thôi dệt mộng phù hoa / Thì em sẽ vì anh mà mở cửa / Trông lên trời, đếm những điểm sao xa (Đếm sao). 

Trong tình yêu, Tạ Ký dự cảm những điều sẽ đến: Nước trong vt coi chng đau si cui / Em ca anh ch,  ai ca ngày mai / Trong tiếng gió, nghe chng hoa trách móc / Hương dù bay, lòng gió vn vương hương / Trong tiếng sui, nghe chng hoa mun khóc / Sui dù tuôn, hoa vn đp như thường(Đếm sao). Cớ gì có những ngôi sao xa xôi, ngồi đếm trong những ngày đang yêu !

Đọc kỹ thơ Tạ Ký, vẫn thấy nỗi niềm lắng trong những câu thơ, đầy tâm trạng. Giữa dòng vui cũng lắm câu buồn. Nỗi buồn thế sự phả vào chuyện tóc tơ:

Ta vẫn chờ em héo cả thơ, 

Đèn khuya đêm trắng nẻo tương tư.

Tóc tơ có kẻ ngàn năm hẹn, 

Ai hẹn ngàn năm chuyện tóc tơ? 
 

Từ thuở quen nhau, rồi cách biệt, 

Lòng nghe còn nặng chuyện tang thương,

Mà dâu bể dậy từ chinh chiến,

Từ thuở trên đầu tóc điểm sương.

Sơ nguyện, một bài thơ, một tình sử, tặng Tuyết Hồng, những đóa  tình ca mt thi xuân, song:

Mong manh mong manh, 

Nửa chiều sơ nguyện. 
 

5. Tạ Ký, đời không như thơ

Tạ Ký có tập Sầu ở lại, đúng như tiên cảm về cuộc đời. Đời không vui nên sầu ở lại. Tạ Ký là kiểu người phong trần, kiêu bạt, phóng túng, đậm chất Quảng. Khi đã tỉnh rượu, từng mảnh con hy vọng / chìm trong đêm sâu dày, thấy mình:

Có ai ngồi trong xó 

Hát khúc hoàng-hôn-ca? 

Tuy bóng chiều chưa đổ, 

Đầy những mặt dơi già! 

  (Khi tỉnh rượu)

Có một bài thơ mang chút ai oán, ngậm ngùi thân thế, bài có tên HOÀI, chỉ một chữ, chứa chan tâm trạng từ buổi còn mơ nguyệt mái Tây, rồi gió đổi chiều xoay hướng:

Từ dạo tay không mơ nghiệp lớn, 
Sử kinh qua một tiếng than dài! 
Trường thành vạn dặm rêu xanh đá, 
Thắng những ai mà bại những ai? 
Đình trưởng một phen trời ngó lại, 
Múa gươm trên mộ kẻ anh tài! 
Hỡi ơi những chuyện ngàn xưa ấy 
Chép miệng mà nghe thấm đắng cay!

 

Một giấc hoàng hoa chưa chắc tỉnh

Nửa ly hoan ngộ lấy gì say

Ai mài kiếm rỉ, ai nâng chén?

Cửa sổ chiều chiều mây trắng bay.
 

Có nỗi buồn lan tỏa trên nhiều câu thơ của Tạ Ký. Rượu không giải tỏa hết nỗi sầu: Ngày xưa dm liu xanh còn xanh/ Ngày xưa trang thư thêm trang tình / Ngày nay mt phút vô tư mt / Ngày nay mt phút bun mông mênh (Em chỉ trả lời, tặng Tôn Thất Trung Nghĩa)

Nhớ Tạ Ký, nhớ những câu thơ viết về quê quán cũ, xin chút nắng ấm, sưởi một linh hồn nho nhỏ:

Mùa hy vọng thắp đôi hàng nến đỏ,

Chép bài thơ thương nhớ giữa kinh thành.

Ôi yếu đuối một linh hồn nho nhỏ,

Chỉ mong ngày nắng ấm ngọn cau xanh.

 (Trung Phước ơi!)
 

Tháng 8 năm 2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm