TIN TỨC

Tạ Ký, nỗi buồn ở lại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-23 11:19:56
mail facebook google pos stwis
1534 lượt xem

HUỲNH VĂN HOA

Thủ bút của Tạ Ký

 

1. Tạ Ký sinh năm 1928 (Mậu Thìn) tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là huyện Nông Sơn), tỉnh Quảng Nam.  Làng Trung Phước nằm trên hữu ngạn con sông Thu Bồn, là một vùng có nhiểu núi non, từ đây càng tiến về phía tây thì càng đi vào vùng rừng núi cao.  Phong cảnh vùng này hữu tình, đồi núi quê ông là nơi Bùi Giáng đã đi chăn dê, hai chàng thi sĩ đất Quảng xuất thân cùng một làng, thậm chí nhà ở cùng một xóm với nhau.

Tạ Ký làm thơ tử thuở còn học tiểu học cho mãi đến những năm cuối của đời mình. Cuộc đời Tạ Ký gắn liền với thơ, cũng như với việc dạy học. Năm 1970, Tạ Ký xuất bản tập thơ Su Li, đã đoạt giải thơ của VNCH, tập thơ thứ nhì Cô Đơn Còn Mãi ra đời năm 1973. 

Cuối năm 1978, Tạ Ký từ Sài Gòn đi về sống ở An Giang và đã qua đời trong cô độc tại đây vào tháng Ba năm 1979. 

Sau khi qua đời, an táng tại An Giang, sau đó thân hữu và gia đình cải táng, đưa về Nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, vào đúng ngày Thanh Minh, năm Tân Tỵ (ngày 5 tháng 4 năm 2001), nằm gần phần mộ Bùi Giáng, nhà thơ cùng quê, cùng thời, người mà từ thưở thiếu thời từng có những ngày cùng chăn dê nơi núi rừng Trung Phước, Trung Lộc, Cà Tang,...

Tạ Ký tin và yêu cuộc đời, bao giờ cũng nghĩ những điều tốt đẹp đối với người thân, bạn bè. Thơ ông bàng bạc thứ ngôn ngữ của tình yêu. Có cảm tưởng, trong thơ, tiếng nói chân thành, hồn hậu lẫn khuất tâm sự ẩn trong từng bài thơ. Con người ấy bao giờ cũng trung thực với người và với mình.

Trong đời, Tạ Ký có những ngày tháng hết sức buồn bã, nhất là vào những năm tháng cuối đời. Khi in Sầu ở lại, lấy ý từ một câu thơ của Huy Cận trong bài Bi ca: "Tình đi mau, sầu ở lại lâu dài". Tập thơ như dự cảm một phía  trước gập ghềnh, bi thương, cay đắng. Chút tình chẳng ở lại lâu, đi mau quá ! Nỗi buồn ở lại, vương vấn trên những vần thơ sầu thương.

Cao Thế Dung nhận định về thơ Tạ Ký: Tạ Ký hiện diện như một nhà thơ của đau xót, trữ tình... Tạ Ký đứng riêng rẻ. Con đường ông đi cũng âm thầm như tiếng thơ ông song vẫn là sự lan rộng trong cái âm thầm yêu dấu của Quê Hương. Thơ ông đặc biệt Việt Nam (Văn học hiện đại, Thi ca và thi nhân, NXB Quần Chúng, Sài Gòn, 1969, trang 107, 108).

1. Tạ Ký và tâm tình quê hương

Thơ Tạ Ký trong giai đoạn đầu vào những năm cuối 40 đầu những năm 50, một thế hệ lớn lên từ sau 1945, mang tâm tình đất nước. Trên Giai phẩm Quảng Đà, 1972, bài thơ Gánh gạo qua đèo trong trẻo, đượm tình xứ sở. Những địa danh quen thuộc của Quế Sơn, Thăng Bình, Hòa Vang, những hình ảnh đèo cao, đá dựng, đêm dày ngủ núi, ánh lửa chập chờn, lũy tre xanh, trăng sáng ngập trời:

Trăng sáng đèo Le

Mây che Giảm Thọ

Dầu cho mưa gió

Không bỏ được đèo

Đường thì đá dựng cheo leo

Tình anh cả gánh anh trèo núi non

Thương nhau mấy dép cũng mòn

Nhớ nhau thức những đêm tròn gánh đi

 ... Gạo đi, nuôi chí căm hờn

Chừ đây gánh gạo quý hơn gánh vàng

Núi rừng che khuất Hòa Vang

Nơi nao  Phú Tứ xóm làng vắng hiu

Dừng chân mở gói cơm thiu

Uống sơ nước suối, sợ chiều đổ nhanh

Anh ở Quế Sơn

Anh ở Thăng Bình ...

Mỗi lần trong lệnh trong làng

Anh đi gánh gạo quên đàng xa xôi

Đêm nay trăng sáng ngập trời

Qua đèo gió lạnh quen hơi núi rừng.

Cũng như Tường Linh, Tạ Ký yêu làng quê Trung Phước với tình cảm sâu nặng. Những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi đầy thương nhớ đi vào thơ:

Trung Phướơi, sông sâu dài un khúc,

Tình cheo leo cao vút mt con đèo, 

Núi Chèo Bo vươn mình trong khói đc,

Hòn Cà Tang thương nh vng tình theo...

       (Trung Phước ơi)

Tạ Ký có những dòng thơ cảm động viết về mẹ, về quê hương. Hình ảnh người mẹ ở chốn quê, sống với lúa vàng, cau xanh, bao đêm thương nhớ con, có em Ngọc hàng xóm, sắp lấy chồng có sang chơi ? Cha vẫn ngâm nga khúc viễn hành ? Thương nhất những câu thơ chân chất, dân dã: 

Thu y cm tay m dn dò: 

Ph phường không phi d chi mô! 

Và đôi mt m rưng rưng l

Đôi mt bây gi chc héo khô! 
 

Thân nghèo nhiều lúc không vui lắm,

Nhưng chng bao gi con ước mong 

Mt cuc đi như thiên h ước, 

Bi vì còn chuyn đc hay trong. 
 

Nói mãi ri ra cũng thế thôi, 

Núi sông cách tr my năm ri, 

Con mong nếu bt thư này đượ

Thì m cho con biết ít li.

         (Thư gửi mẹ)

Xa quê, xuân về, lại nhớ mẹ, "đầu xuân con biết mẹ đang buồn". Chiến tranh, quê nghèo, nơi đó: Ra đi t do mùa cam chín / Đã my mùa cam con cha v /  Tóc m hoa râm, nay bc trng / Vô tình trước ngõ trng hoa lê /  Có nhng đêm bun con phát khóc,  / Nh xưa tết đến dy mai vàng / Tha hương thân bé còn lăn lóc /  Mi đ xuân v mi d dang / Quê nhà hoang vng ra sao m(Bức thư đầu xuân).

Cảnh giao thừa giữa phố phường đông đúc, một kẻ không nhà, xa xôi mòn gót nơi đất khách quê người, cảm thương thân phận: 

Thẩn thơ đón lạnh giữa đường

Núi xa trùng điệp, cố hương khuất rồi! 

                (Giao thừa giữa phố)

2. Tạ Ký, giai điệu trầm lắng

Dần về sau, Tạ Ký chọn hướng đi riêng, vừa mang tâm hồn phương Đông vừa thao thức những nỗi niềm thế sự. Các cung bậc tình yêu phả lên hồn thơ Tạ Ký những giai điệu trầm lắng.

Tạ Ký, cảm khái cuộc đời của những nhân vật trong Truyện Kiều: Thúy Kiều, Thúy Vân, Từ Hải.

Với Kiều, người con gái tài hoa bạc mệnh, có nhan sắc và tài năng hơn người nhưng phải chịu một cuộc đời truân chuyên, chìm nổi suốt mười lăm năm trường. Kiều là hiện thực của nỗi đau khổ khôn cùng của con người trong xã hội phong kiến. Số phận nghiệt ngã, đầy bi kịch, bất hạnh nối tiếp bất hạnh. Hạnh phúc ngỡ như đến với nàng, rồi vuột khỏi tầm tay.

Như bao thi sĩ khác, Tạ Ký đồng cảm với thân phận nàng Kiều qua bài thơ Đon trường gi li. Mười sáu câu thơ đẫm đầy nước mắt, gợi lại những năm tháng buồn bã của đời Kiều:

Bước chân nào nng phù du, 

Ngón tay nào tht su tư trói hn. 

Cô đơn ri vn cô đơn, 

Bn mươi thu đó đòi cơn đon trường.
 

Sông xa bãi cát vàng hanh,

Đìu hiu bến vng, mong manh sương chiu. 

Mười lăm năm gic mng vèo, 

Bn dây nh máu xuôi theo Tin Đường.
 

 T em ln la lu xanh, 

Cuc say đy tháng, tàn canh, vn tha.

Ch đây bên cnh người xưa, 

Na đêm tái ng nghe mưa cui tri.
 

Mà thôi, đàn kiếm giang h

Tr v cát bi, cơ đ ng nghiêng.

Say đến khóc, cười như điên, 

Ngàn xưa đng li mt thiên não người! 

Cái hay của bài thơ là những hình ảnh về cô đơn, là tiếng đàn rỏ máu, là dòng nước Tiền Đường, là thân trói lầu xanh, là cuộc say đầy tháng, là đêm mưa cuối trời khi gặp lại người xưa, là Từ Hải với đàn kiếm giang hồ, khóc cười điên đảo, cuối cùng, vẫn chỉ "một thiên bạc mệnh lại càng não nhân".

 Tạ Ký đồng cảm với đời Kiều, cũng say, cũng khóc. Tạ Ký - một cuộc đời cũng mong manh sương chiều, đìu hiu nơi bến vắng: Bn mươi thu đó đòi cơn đon trường. 

Với nhân vật Thúy Vân, Tạ Ký không đi về phía vẻ đẹp quý phái, hài hòa với thiên nhiên, "mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da". Ông nghiêng về những dòng đời bất hạnh của Thúy Vân. Chỉ bốn câu, ba dấu hỏi (ấy chi ? / làm gì ? ai ?), tạc dựng chân dung nàng:

Còn em chén cúc tàng tàng,

Cuc vui nói tiếng đon tràng y chi ? 

Thưa rng: cũng chng làm gì ? 

Ai mê dáng ch mà vì duyên em? 

     (Thúy Vân)

Những câu thơ cũng dự báo một cuộc sống không bằng phẳng, chẳng bình yên, thiếu hạnh phúc của Thúy Vân.

Còn đây là Từ Hải, nhân vật mà Nguyễn Du gọi "anh hào", "đại vương", "anh hung", "đấng anh hùng" và gửi gắm bao tình cảm vào con người dọc ngang, khí phách, ngang tàng, khẳng khái, nghĩa khí, đậm chất nghệ sĩ, khiến ta yêu, ta quý, đúng như nhà thơ viết:

Nghe rng dy la đao binh,

Đon trường ngay thu thân nghênh ca ngoài.

Mt trăng lơ lng non đoài, 

Mà hn lơ lng vi loài tho hoa

            (Từ Hải)

Thêm một lần Tạ Ký làm ta yêu hơn Từ Hải, một biểu tượng của ước mơ và hạnh phúc, của tự do và công lý, của mảnh trăng treo lơ lửng nơi non đoài, sáng một góc trời, cùng sánh với thảo hoa đầy hương sắc.

Có khi, ngẫm thân thế: Bể Nam chim chẳng theo chiều gió / Nhịp sóng trùng dương vẫn thở than, Tạ Ký nhớ Nguyễn Du: Bất tri tam bách… ngàn năm nữa  / Tiếng thở than còn nguyên thở than! / Một bước chân người qua trước cửa, / Rồi xa, xa mãi chẳng dư vang (Một mình). Có quá nhiều "tiếng thở than" trong một bài thơ ngắn. Lại có khi nhìn mình qua thân phận Kiều:

Mười lăm năm: một Kiều nhi, 
Ba mươi năm hỏi làm chi bây giờ? 
Tâm tình: lỗi một đường tơ, 
Thế tình: loạn giữa hai bờ lợi danh, 
Nhân tình: khi rách, khi lành, 
Thì trang tình sử lại đành dở dang. 

     (Thì trang tình sử…)

Cả tâm tình và nhân tình đều lỗi đường tơ, đều đành dang dở. Tạ Ký đồng cảm với Kiều, với Nguyễn Du, trải lòng qua từng trang tình sử.
 

3. Tạ Ký, nghĩa tình bằng hữu

Tạ Ký có nhiều bài thơ tặng bạn bè như tặng Cao Thế Dung (Dâng, Ngõ lạc), Thế Viên (Viết trang tình sử), Phạm Công Thiện (Anh cho em mùa xuân), Bùi Giáng (Dáng xưa), Cam Duy Lễ (Đếm sao), Huy Trâm (Bài thơ cuối mùa), Tôn Thất Trung Nghĩa (Buồn như, Em chỉ trả lời), Tạ Hồng Nguyện (Thư gửi mẹ), Hoài Khanh (Giao thừa giữa phố), Nguyễn Liệu (Thế hệ bốn lăm), Lê Sử (Lại một bài thơ tâm tình), Phổ Đức (Hẹn một ngày mai), Trương Đình Ngữ (Xuân về thương nhớ với ai đây?, ...

Thơ tặng bạn thể hiện tình cảm nồng ấm, chân tình. Trong các nhà thơ ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, Tạ Ký là nhà thơ có nhiều thơ tặng bạn. Thơ tặng bạn nằm trong truyền thống thi ca phương Đông. Đó là Hoàng Hạc lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của Lý Bạch, Đông nhật hữu hoài Lý Bạch, Xuân nhật ức Lý Bạch của Đỗ Phủ, Đông dương tửu gia tặng biệt của Vi Trang, Nam hành biệt đệ của Vi Thừa Khánh, Hữu nhân dạ phỏng của Bạch Cư Dị, ...

Tạ Ký, qua thơ, dễ thấy rằng, thi sĩ đã phổ tâm tình của mình vào những không gian, cảnh vật như bài Tôn Thất Trung Nghĩa: Từng đêm chợ Đũi đẫm sầu / Ly la-ve đổ gội đầu tóc xanh / Người sơn dã lạc kinh thành / Ngả nghiêng đáy cốc độc hành trong đêm. Bốn câu lục bát nói lên nỗi sầu ở buổi tóc xanh, như người hoang dã của núi rừng, lạc giữa kinh thành, một mình đi trong đêm, ngả nghiêng, chênh choáng đáy cốc.

Xuân về thương nhớ với ai đây? tặng Trương Đình Ngữ là bài thơ xuân đầy tâm trạng. Bài thơ  mở ra chân trời đầy nỗi niềm. Năm tháng dằng dặc những dang dở, giang hồ vẫn trắng đôi tay, đất trời ngày mai chỉ còn là cuộc hẹn, xuân vẫn còn xuân với đọa đày. Một câu chuyện tâm tình không biết tỏ cùng ai. Hiên người hoa lại nở. Năm tháng cầm bằng một cơn say. Không gian tâm tưởng. Thời gian tâm trạng, một mùa xuân:

Đâu đây nhc rót mng xuân mi, / Không hiu thương ai nước mt đy ! / Nhà trng tha h mơ mng đến / Tin đâu mua ly na cơn say / Thơ chng ai yêu, ri cũng vn / Đêm đêm nm tính chuyn tương lai / C tri dăm đa nghèo xơ xác / Ăn chc nm ch khp đó đây / Tán gu, cười suông, ngâm lc ging / “Sòng đi thua nhn c thơ ngây” / Thuc chưa hết điếu mà cay mt / Tình chng muôn đi vn đng cay / Xuân bng tưng bng trên má thm /  Xuân v thương nh vi ai đây ? 

Bài thơ cui mùa tặng Huy Trâm, một bài thơ tình, như tác giả viết: Không vui t do mi quen nhau / Ngày tháng bun tênh vn lướt qua, để rồi: Mùa cui, năm tàn, yêu na thôi ? / Kìa em, va thoáng ánh sao rơi / Đi khi lòng đt đưa tay đón /Ta s dn quên chuyn đi di. 

Thơ tặng bạn thường mang tâm trạng chia lìa, không gian ít khi hòa điệu với con người, tiêu biểu là Sầu ở lại. Chén rượu không vơi nỗi đoạn trường, ngồi bên nhau, vẫn dòng lệ chứa chan:

Đời lỡ nhúng sầu bên cốc rượu

Mượn vui bè bạn sống qua ngày

Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ

Cơm áo làm quên chuyện nước mây
 

Năm cùng tháng tận đời hoang vắng

Bên quán ngờ đâu lại gặp mầy

Gọi để mừng nhau khi hội ngộ

Thì xin hãy cạn chục ly đầy
 

Quàng vai tìm chút dư hương cũ

Nhắc đến hằng trăm chuyện đổi thay

Nhắc đến những thằng nay đã chết

Những thằng đang sống kiếp trâu cày
 

Bạn ơi nước mắt mình tuôn chảy

Ngồi nhậu bên đường ta khóc đây.

Chén rượu, ly rượu, hình ảnh thường thấy trong thơ Tạ Ký. Rượu đi đôi với sầu, với nỗi buồn: Buồn như ly rượu cạn / Không còn rượu cho say / Bun như ly rượu đy / Không còn mt người bn / Buồn như buồn như thế / Buồn như một kiếp người / Ðây cõi lòng quạnh quẽ / Buồn như đoá hoa rơi !” (Buồn như).

Có và không. Không và có. Rượu không vơi niềm cô đơn:

Có rượu nhiều không mà say đêm nay? 

Có tiếng giai nhân cười vang đường dài?

Cô đơn từng bước lê trong tối, 

Có hoa nào không mà anh đưa tay? 

              (Em chỉ trả lời)

4. Tạ Ký, những trang tình sử

Tạ Ký viết nhiều thơ tình. Như một Nguyễn Bính trong Chân quê, Tạ Ký trong Viết trang tình s, tặng Thế Viên, về tình cảm đối với cô gái Huế của "xứ mộng, xứ mơ",  thẹn thùng khi nhắc chuyện chồng con, nhưng rồi:

Giận mình chưa đạt lời nguyền, 

Anh không mong được chung thuyền ấy đâu. 

Khi mô người bỏ cau trầu, 

Cho anh biết đủ sầu lên men, 

Để anh vặn nhỏ ngọn đèn, 

Viết trang tình sử cùng tên một người.

Trong thơ, Tạ Ký bộc lộ tâm tình: “Hỡi Thượng Ðế, suốt đời con đơn chiếc,/ Ði vu vơ như lạc nẻo Thiên Ðường,/ Thân cát bụi chẳng còn chi hối tiếc,/ Nhưng lòng riêng khao khát chút Tình Thương.” (Đêm giáng thế). Nhà thơ mãi đi tìm… “Tôi biết nói gì khi ta quên nhau?/ Tôi biết muốn gì, trời còn mưa mau / Em vẫn là em, xưa kia tuy khác / Tôi hết là tôi, chừ đây cúi đầu / Tôi lại say rồi, ngả nghiêng, ngả nghiêng / Nhạc cuồng gào lên, nhạc cuồng không tên...” (Cúi đầu)

Ngày đầu của tình yêu, có suối biếc, có hoa rừng, có cỏ cây: Đó là ngày va mi được quen em. Rồi theo thời gian, những câu thơ thật buồn: Ngày mái tóc không còn xanh được nữa / Ngày đôi tay thôi dệt mộng phù hoa / Thì em sẽ vì anh mà mở cửa / Trông lên trời, đếm những điểm sao xa (Đếm sao). 

Trong tình yêu, Tạ Ký dự cảm những điều sẽ đến: Nước trong vt coi chng đau si cui / Em ca anh ch,  ai ca ngày mai / Trong tiếng gió, nghe chng hoa trách móc / Hương dù bay, lòng gió vn vương hương / Trong tiếng sui, nghe chng hoa mun khóc / Sui dù tuôn, hoa vn đp như thường(Đếm sao). Cớ gì có những ngôi sao xa xôi, ngồi đếm trong những ngày đang yêu !

Đọc kỹ thơ Tạ Ký, vẫn thấy nỗi niềm lắng trong những câu thơ, đầy tâm trạng. Giữa dòng vui cũng lắm câu buồn. Nỗi buồn thế sự phả vào chuyện tóc tơ:

Ta vẫn chờ em héo cả thơ, 

Đèn khuya đêm trắng nẻo tương tư.

Tóc tơ có kẻ ngàn năm hẹn, 

Ai hẹn ngàn năm chuyện tóc tơ? 
 

Từ thuở quen nhau, rồi cách biệt, 

Lòng nghe còn nặng chuyện tang thương,

Mà dâu bể dậy từ chinh chiến,

Từ thuở trên đầu tóc điểm sương.

Sơ nguyện, một bài thơ, một tình sử, tặng Tuyết Hồng, những đóa  tình ca mt thi xuân, song:

Mong manh mong manh, 

Nửa chiều sơ nguyện. 
 

5. Tạ Ký, đời không như thơ

Tạ Ký có tập Sầu ở lại, đúng như tiên cảm về cuộc đời. Đời không vui nên sầu ở lại. Tạ Ký là kiểu người phong trần, kiêu bạt, phóng túng, đậm chất Quảng. Khi đã tỉnh rượu, từng mảnh con hy vọng / chìm trong đêm sâu dày, thấy mình:

Có ai ngồi trong xó 

Hát khúc hoàng-hôn-ca? 

Tuy bóng chiều chưa đổ, 

Đầy những mặt dơi già! 

  (Khi tỉnh rượu)

Có một bài thơ mang chút ai oán, ngậm ngùi thân thế, bài có tên HOÀI, chỉ một chữ, chứa chan tâm trạng từ buổi còn mơ nguyệt mái Tây, rồi gió đổi chiều xoay hướng:

Từ dạo tay không mơ nghiệp lớn, 
Sử kinh qua một tiếng than dài! 
Trường thành vạn dặm rêu xanh đá, 
Thắng những ai mà bại những ai? 
Đình trưởng một phen trời ngó lại, 
Múa gươm trên mộ kẻ anh tài! 
Hỡi ơi những chuyện ngàn xưa ấy 
Chép miệng mà nghe thấm đắng cay!

 

Một giấc hoàng hoa chưa chắc tỉnh

Nửa ly hoan ngộ lấy gì say

Ai mài kiếm rỉ, ai nâng chén?

Cửa sổ chiều chiều mây trắng bay.
 

Có nỗi buồn lan tỏa trên nhiều câu thơ của Tạ Ký. Rượu không giải tỏa hết nỗi sầu: Ngày xưa dm liu xanh còn xanh/ Ngày xưa trang thư thêm trang tình / Ngày nay mt phút vô tư mt / Ngày nay mt phút bun mông mênh (Em chỉ trả lời, tặng Tôn Thất Trung Nghĩa)

Nhớ Tạ Ký, nhớ những câu thơ viết về quê quán cũ, xin chút nắng ấm, sưởi một linh hồn nho nhỏ:

Mùa hy vọng thắp đôi hàng nến đỏ,

Chép bài thơ thương nhớ giữa kinh thành.

Ôi yếu đuối một linh hồn nho nhỏ,

Chỉ mong ngày nắng ấm ngọn cau xanh.

 (Trung Phước ơi!)
 

Tháng 8 năm 2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm