- Truyện
- Mơ hoa | Phạm Xuân Hùng
Mơ hoa | Phạm Xuân Hùng
PHẠM XUÂN HÙNG
1.
Mà thực sự nó là như thế. Ở đời nhiều cái chỉ có thể nói bằng một cách, theo một giọng, không khác đi được.
Quán của Hoàng nằm ở cuối xóm, sát bìa rừng. Từ đây có con đường bê tông gọi là đường quốc phòng chạy thẳng vào chân dãy Giăng Màn ở phía tây. Theo đường bê tông khoảng 5 cây số rẽ phải có con đường mòn dẫn lên ngọn Sương Mãi cao nhất của dãy Giăng Màn. Ngọn Sương Mãi cao lắm, nghe nói chưa từng ai lên tới đỉnh. Cũng nghe nói trên đỉnh ngọn Sương Mãi có nhiều kỳ hoa dị thảo, cây cối uốn éo như rồng bay phượng múa, ai nhìn thấy cũng xây xẩm mặt mày vì ngỡ lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
Hoàng quê gốc ở nơi khác. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Văn thời đó khó xin việc, Hoàng xung phong lên đây dạy học ở một ngôi trường cấp II, dạy văn. Trường miền núi, dân đa phần đi kinh tế mới. Học trò Kinh có, dân tộc có, nhiều đứa nhất là học sinh nữ, học nửa buổi bảo tao về đây, học cái chữ thế đủ rồi, về đi lấy chồng thôi. Hoàng sáng lên lớp, chiều loanh quanh chăm vài luống rau, rồi nhậu, toàn rượu đế, mồi toàn măng rừng, cá suối, có gì ăn nấy.
Vợ Hoàng tên Mai trước là giáo viên dạy Hóa cùng trường, cũng từ xuôi lên. Ở thời gian buồn quá lấy một anh chồng thợ cội người địa phương. Một lần trưa dạy 5 tiết về thấy anh chồng lúi húi thổi lửa nấu cơm, khói um lên. Mai bảo anh rút bớt củi ra, nó không cháy vì thiếu ôxy. Anh chồng chụp lấy đầu Mai dúi vào bếp, ôxy này, ôxy này. Mái tóc Mai gặp lửa bùng lên khét lẹt, cháy sém luôn cả một bên má. Hai vợ chồng chưa có con, Mai bỏ anh ta lấy Hoàng. Rồi cả Hoàng với Mai bỏ trường luôn, ra đây mở quán. Gọi là quán nhưng bên trong là hàng tạp hóa, đủ thứ gạo, mỳ tôm, nước mắm, xì dầu... Chỉ khoảng trước sân Hoàng dành chỗ quây lại bằng hàng rào gỗ, lấy bìa ván đóng nhiều bàn ghế nhỏ cho khách ngồi nghỉ chân uống nước, cà phê, có khi cả rượu. Vợ Hoàng không học văn nhưng cũng mê nhạc, sắm cho bằng được cái radio cátsét hiệu Sony chạy băng từ. Nghe đến lúc nào băng nhão thì thôi. Lúc nào băng nhão, Hoàng hay vợ Hoàng lại về chợ Phiên cách đó chừng 30 cây số. Ghé quầy mua bán, sửa chữa điện tử, đưa tiền lấy vài băng cátsét mới, thường có nhạc Trịnh, tiền chiến và bolero.
Cuối năm là dịp thợ cội tức thợ sơn tràng ghé quán Hoàng nhiều nhất. Từng tốp một, tốp thì cưa cây chặt gỗ, tốp đi tìm trầm, tốp đi săn thú. Vợ Hoàng văn vẻ gọi họ là “đội quân ăn lộc rừng”. Hoàng bảo, phá rừng chứ ăn lộc rừng cái mẹ gì. Vợ Hoàng bảo, ơ kìa, có họ mình mới có miếng ăn, không có họ bốc cứt ăn à.
2.
Thường vào tháng chạp, sau 20 âm, gã lại lên đây. Một mình, ghé vào quán Hoàng. Năm đầu vợ chồng Hoàng không để ý nhưng năm sau thì nhớ ngay. Gã không phải người vùng này, cũng chẳng ở gần đây. Áo quần gọn gàng khác cánh thợ rừng nhưng cũng chẳng phải công chức hay trí thức. Gã có vóc người dong dỏng, tóc muối tiêu, cánh tay phải có xăm gì đó nhưng giờ đã bị xóa. Vết xóa nhìn rõ là dùng đầu thuốc lá cháy đỏ dí vào, từng chấm sẹo chồng lên nhau. Bao giờ gã cũng lên đây vào giữa buổi sáng, đi thẳng vào quán, lựa chiếc bàn góc trong cùng. Cẩn thận kéo ghế, đặt ba lô xuống rồi ngắn gọn: Cho xin 1 bao Đà Lạt, 1 xị rượu gạo, 1 nhúm muối. Rút từ trong ba lô ra khi trái ổi xanh, khi trái cóc xanh, gã ngồi nhâm nhi, khói thuốc um lên. Chừng gần trưa gã trả tiền rồi lặng lẽ khoác ba lô theo đường quốc phòng đi về phía dãy Giăng Màn.
Hoàng đoán gã vào rừng nhưng chẳng biết gã tìm gì. Ba lô của gã cũng chỉ có mấy đồ lặt vặt. Thò ra bên trên một vật dụng ở quê gọi là cái cúp, lưỡi cúp bên có đầu bằng để cuốc, chặt, bên nhọn để đào rễ, bẩy gốc cây. Một cây rựa, một chiếc cưa tay. Đáy ba lô căng phồng, chắc đựng gạo mắm và chiếc nồi nhôm. Gã đi chừng một tuần rồi trở về, lại ghé quán Hoàng. Ba lô hết căng phồng ở dưới nhưng chẳng thấy đựng gì thêm. Cũng vẫn 1 bao Đà Lạt, 1 xị rượu gạo, 1 nhúm muối. Rồi khói thuốc um lên. Vợ Hoàng thì thào sau quầy tạp hóa: Lão này chắc đi tìm xác Mỹ. Hoàng gắt, xác Mỹ giờ đào đâu ra, chương trình Pow Mia mấy năm nay lùng sục còn chưa có đốt xương khô.
Một điều lạ là bao giờ vào quán, khi rượu, thuốc, muối đưa ra gã cũng đề nghị Hoàng mở nhạc nghe chơi. Hoàng hỏi, anh nghe nhạc gì. Gã bảo, nhạc gì hay hay, mà thôi, anh mở bài Mơ hoa đi.
3.
Đông nhất, người lạ xuất hiện nhiều nhất ở quán Hoàng dịp cuối năm là nhóm đi tìm mai rừng. Thú chơi mai Tết chằng dành riêng cho ai, trừ miền Bắc hay chưng hoa đào, còn lại miền Trung và miền Nam thì nghèo mấy cũng cố thửa chậu mai, cành mai vào dịp Tết. Thời buổi kinh tế thị trường, trừ một số ít cán bộ hưu trí rảnh rỗi thời gian chăm sóc mai tự tay trồng, còn lại cứ chờ cận Tết mua hẳn một chậu mai nhà vườn trồng là đẹp. Vừa có thế cây ưng ý, vừa có hoa nở sẵn, giá cả tùy túi tiền. Chơi xong thích thì chăm sang năm chơi tiếp, không thì bán rẻ lại nhà vườn, mất ít tiền coi như phí dịch vụ chơi hoa.
Nhưng mai rừng là thứ nhà vườn không có. Mai rừng đương nhiên ở trên rừng. Cả miền Trung đều biết tiếng mai rừng dãy Giăng Màn. Mai ở đây không vàng rực khoe khoang như mai nhà, chúng ít cánh và màu hoa rất kỳ lạ. Thoáng nhìn qua là màu vàng nhẹ hư ảo như sương, nhìn kỹ lại thấy sắc trắng như tuyết sa vừa phủ. Rồi nhìn kỹ thêm lần nữa lại thấy màu vàng phơn phớt, chấp chới như có như không. Lạ nữa là mai rừng chưng rất lâu tàn, qua rằm thậm chí hết tháng giêng búp vẫn còn nở. Nhiều năm ở quán, vợ chồng Hoàng nghiệm ra, mai rừng chẳng phải năm nào cũng có. Năm nào trúng, người nhiều gùi cả chục cành; năm nào thất, người chỉ một hai cành. Mai rừng quý nên đắt, nghe cánh săn mai bảo, chỉ cần một cành mai đẹp là cả nhà ăn Tết dư dả.
Chừng năm thứ ba, thứ tư gì đó, gã lại ghé quán Hoàng đúng ngày cúng ông Táo. Vẫn không có gì thay đổi, 1 bao Đà Lạt, 1 xị rượu, 1 nhúm muối. Và Mơ hoa trộn vào khói thuốc um lên. Hoàng mở nhạc xong quay ra ngồi chờ. Nửa buổi sáng tháng chạp mà trời vẫn còn âm u. Miền cao nên mây sà xuống thấp, vấn vít trên những sườn đồi. Hoàng bắt chuyện gã:
- Xin lỗi, hỏi không phải anh bỏ qua. Anh đi tìm mai à?
- À, ờ, không... Sao anh nghĩ thế?
- Dạ, là vì mấy năm thấy anh lên đây rồi về. Mà không thấy đem gì về theo.
- À, ờ, ừ. Tôi đi ngao du sơn thủy thôi. Tôi chưa thấy cái tôi tìm. Mà hình như tôi đang đi tìm cái không thấy... - Gã trả lời, giọng như người âm xuyên qua Mơ hoa và khói thuốc.
Bất giác Hoàng sợ hãi, người ngồi trước mặt Hoàng có phải gã không, gã là con nhang đi tìm bùa ngải hay là thiền sư nào đó vừa hạ sơn. Gã hỏi Hoàng:
- Anh học văn chương ra à?
- Dạ, sao anh biết?
- À, là tôi đoán nhân tướng thôi. Nhạc anh chọn rất hay. Nhạc Trịnh cũng hay.
- Dạ, anh thích bài nào tôi mở?
- À, không, tôi nghe Mơ hoa thôi. Nhưng cũng thích Trịnh.
Trả lời xong, gã cất tiếng hát nhẹ như mây. Gã hát lộn xộn, từ Hoa xuân ca sang Ngẫu nhiên. Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa. Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ... Hòn đá lăn trên đồi. Hòn đá rớt xuống cành mai. Rụng cánh hoa mai gầy. Chim chóc hót tiếng qua đời. Người ôm lấy muôn loài. Nằm trong tiếng bi ai...
4.
Một lần của năm nào đó. Khi đã qua buổi sơ giao, Hoàng ướm hỏi gã:
- Em đoán anh đi tìm cái gì đó đặc biệt?
Thay vì trả lời, gã hỏi Hoàng:
- Anh đã bao giờ lên đến đỉnh Sương Mãi chưa?
- Dạ, chưa. Mà hình như cũng chưa ai đến được.
- Vậy mà tôi đã đặt chân tới.
- Ô, chắc anh là người đầu tiên. Em không hình dung ở đó có gì?
- À, ờ, ừ. Ở đó lạ lắm. Tôi không thể kể được. Vì không có gì ở đây giống với trên đó.
Gã ngừng lại giây lát rồi nhả khói và nói tiếp. Không phải nói với Hoàng mà nói với chính gã:
- Tôi sẽ đi nữa. Nhất định tìm thấy. Dù cái tôi tìm là cái không nhìn thấy.
Hoàng kể với vợ câu chuyện về gã. Vợ Hoàng bảo, cái lão ấy nhìn là thấy điên điên, dở dở, không tâm thần thì cũng đứt vài dây. Hoàng bảo, thì đời người ai cũng đi tìm cái gì đó. Vợ Hoàng cười như nắc nẻ. Ông là dân văn chương chắc cũng té giếng như lão kia. Tìm cái gì, ở đây buôn bán vài năm rồi kiếm tiền mà về xuôi ở. Chôn thân chốn rừng rú này đến già thì chỉ có đi tìm cái chết. Nghe vợ nói, bỗng dưng lòng Hoàng buồn vô hạn. Con người ta, sống không tìm kiếm điều gì thì sinh ra để làm gì? Mà vợ Hoàng nói cũng đúng, ai làm gì mặc, vợ chồng chỉ cần kiếm tiền và tìm về xuôi trú thân.
Năm nào đó nữa, Hoàng trò chuyện với gã lâu hơn. Hóa ra gã cũng là dân văn khoa thời chế độ Sài Gòn. Đang học năm thứ 3 thì chiến tranh kết thúc. Gã bỏ học rồi dòng đời xô đẩy gã tìm kiếm mưu sinh. Nhưng cụ thể làm nghề gì, ở đâu thì gã không nói. Gã còn biết vợ chồng Hoàng đang ép phe nhiều vụ buôn gỗ lậu để kiếm tiền. Cái quán này chỉ là nơi cung cấp thực phẩm cho đám sơn tràng và là ăng-ten dò sóng kiểm lâm. Gã bảo, tôi không can thiệp vào đời sống người khác. Nhưng anh phải nhớ, cái mình tìm chưa chắc đã thấy, cái mình thấy tưởng là cái mình tìm hóa ra không phải. Đời là thế, cũng như tôi.
5.
Mùa mưa cuối cùng cũng là năm cuối cùng vợ chồng Hoàng ở dưới chân dãy Giăng Màn. Hai vợ chồng đã gom được số tiền đủ về xuôi mua đất dựng nhà, đủ để mở công ty kinh doanh lớn như kim khí điện máy, hoặc xăng dầu, hoặc bất động sản. Đêm nào vợ Hoàng cũng nhẩm tính, phương án kinh doanh này thì thuê từng ấy người, trả lương mỗi người nhân lên. Giả sử lợi nhuận bằng thế, trừ chi phí đi thì lãi ròng còn lại nhiêu. Sau chừng ấy năm thì sẽ có được mấy mặt tiền phố lớn ở thành phố tỉnh lỵ, vân vân và vân vân. Nếu thế thì ra giêng là về ngay, đất có rồi, bản vẽ có rồi, về là xây nhà xưởng luôn.
Năm đó gã lại lên, cũng vào ngày cúng ông Táo. Nhìn gã sau nhiều năm quen biết thấy già hẳn đi, râu dài ngã bạc. Tóc trước muối tiêu giờ trắng gần hết. Nhưng âm sắc giọng nói thì không thay đổi. Gã bảo, tôi biết vợ chồng anh sắp chuyển về xuôi. Tôi cũng đi chuyến này nữa, rồi thôi. Lại vẫn 1 bao Đà Lạt, 1 xị rượu, 1 nhúm muối. Và Mơ hoa. Chưa có năm nào Hoàng trông gã về như năm đó. Những ngày cuối cùng của tháng chạp bỗng dưng trời mưa to 3 ngày liền, tận 29 Tết mới dứt cơn.
Chiều 30 Tết, gã về lại quán Hoàng. Tóc tai rã rượi, ba lô rách quai đeo xệ một bên vai. Áo quần tơi tả, cánh tay có hình xăm bị gai cào xước rướm máu. Duy chỉ có ánh mắt sáng bừng lên. Gã xúc động, thì thầm với Hoàng:
- Tôi đã nhìn thấy nhưng không tìm thấy. Tôi đã tìm thấy nhưng không nhìn thấy. Nó đẹp và kỳ ảo lắm. Chỉ nhìn thấy một bông thôi, rồi tất cả biến mất. Màu vàng, không phải, màu trắng, không hẳn. À, ừ, ờ, màu vàng. Quá lộng lẫy. To bằng nắm tay, hình trái tim. Tôi đã...
Bữa tiệc cuối cùng ở chốn sơn lâm cũng vẫn thế, 1 bao Đà Lạt, 1 xị rượu, 1 nhúm muối. Và Mơ hoa. Chỉ có gã ngồi với Hoàng. Nhìn gã như Từ Thức vừa ở cõi tiên về. Mắt sáng rực, giọng hào hển kể về khoảnh khắc đốn ngộ giữa chốn kỳ hoa dị thảo. Trên chóp đỉnh ngọn Sương Mãi.
Hoàng ngồi nghe như bị thôi miên. Ngồi mãi cho đến khi gã chìa cánh tay rướm máu bắt lấy tay Hoàng giật giật:
- Tạm biệt anh. Tôi về đây, cái gì đã khởi duyên thì rồi đi đến nghiệp quả. Chúng mình đã có duyên gặp nhau, nghiệp quả ắt phải chờ...
Hoàng không hiểu gã nói gì. Câu chuyện vốn huyền hoặc lại càng thêm phần kỳ bí. Chuyến xe tất niên chiều tối sắp bước sang đêm trừ tịch mang theo bóng dáng gã và chiếc ba lô sờn rách. Hoàng nhìn theo, cõi lòng chợt nghe hiu hắt.
6.
Nhiều năm sau, vợ chồng Hoàng đã có cơ ngơi hoành tráng, biệt phủ ngay giữa lòng thành phố tỉnh lỵ. Hoàng nhiều lần trở lại quán cũ (đã sang tay cho người khác) thăm đám sơn tràng ngày xưa. Họ giờ cũng tóc bạc râu bạc, nhiều người đi đứng phải nhờ con cháu. Không ai biết gã giờ ở đâu. Có người bảo hình như gã đã lên núi tu tiên. Chuyện rừng sâu núi thẳm kể mãi không hết. Hoàng nghe loáng thoáng ai đó nói, trên đỉnh Sương Mãi có cây Thần Mai, mỗi trăm năm nở hoa một lần. Hoa vàng chói lọi, to bằng nắm tay, hình trái tim.
Tình cờ, một lần Hoàng đọc được câu chuyện người ta viết về các phi hành gia vũ trụ. Khi ở trên cao nhìn về, thấy trái đất chỉ như hòn bi ve lang thang trong cõi vô cùng. Tất cả, không loại trừ ai, sau khi hoàn thành các chuyến bay thám hiểm không gian đã không còn sống như xưa. Họ rơi vào cảnh giới khác mà không ngôn từ nào diễn tả được.
Nếu tôi kết thúc câu chuyện ở đây, hẳn độc giả sẽ phản ứng. Tâm lý ai cũng vậy, muốn có một cái kết cho ra kết. Rồi ai cũng có quyền chất vấn. Rút cục gã đó ở đâu? Hay riết róng hơn, đòi tác giả phải giải quyết số phận vợ chồng Hoàng, nó phá sơn lâm đâm hà bá thì nghiệp quả phải trả ra sao?
Tôi người kể câu chuyện này biết rất rõ về cái kết của gã, của vợ chồng Hoàng nhưng quyết không viết thêm. Tôi nghĩ kết như thế nào là tuỳ bạn đọc. Có thể, chính độc giả là mới là những người tìm thấy điều tôi không nhìn thấy. Và theo cách nào đó, nói kiểu văn chương, thì bạn đọc cũng chính là điều tôi tìm kiếm bấy nay.
(Truyện đã đăng Tạp chí Văn nghệ TPHCM, số 10/2022).