TIN TỨC

Một chữ tình trong miền Nam xưa ngái

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-08 10:06:58
mail facebook google pos stwis
624 lượt xem

NGUYỄN BÍNH HỒNG CẦU

Miền Nam xưa ngái gọi ta về một miền ký ức xưa, nơi đó chất chứa bao hoài niệm của một đời một thời, chất chứa nỗi mình nỗi người với bao oan khiên buồn vui vinh nhục thăng trầm máu lệ không chỉ của riêng ai, số phận đời người gắn liền cùng số phận của quê hương đất nước.


Nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu và nhà văn Thu Trân

Bước đi thời cuộc mang theo những dịch chuyển đổi dời giằng xé giữa cũ - mới, mất - còn, để tạo dựng nên những giá trị tinh thần mới mẻ nhưng đồng thời cũng làm xáo trộn không nhỏ, làm mất đi những giá trị đã được xác lập của người xưa. Sự biến thiên nghiệt ngã của thời cuộc hằn sâu thêm những dấu ấn bi hùng lên khuôn mặt lịch sử, đồng thời cũng nhào nặn nhấn chìm tan tác bao phận người phận đời nổi nênh dâu bể khóc cười. Con người và vùng đất của Miền Nam xưa ngái đã lùi sâu vào quá khứ, lớp bụi thời gian đủ dầy đủ cao theo ngày tháng chất chồng, nhưng giờ đây con người và vùng đất nhau rún máu thịt đó được tái hiện qua ngòi bút của chính tác giả, người trong cuộc, nó rờ rỡ tươi rói y xì như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, bởi vùng ký ức đó được lưu giữ trong hồn cốt của người viết, song hành cùng năm tháng đời người.

Tôi lắng lòng mình theo từng trang từng trang Miền Nam xưa ngái và tôi như gặp lại chính mình ở đâu đó trên trang viết của Thu Trân. Bởi tôi cũng có một tuổi thơ không yên bình, một vùng đất máu thịt đẫm máu và nước mắt, đất nước của một thời mang trên mình cuộc chiến tranh tàn khốc. Cũng như các bạn đều biết, gốc gác tôi không phải người Đàng trong mình, nhưng phải nói tôi rất may mắn và rất tự hào vì được cha mẹ sinh ra ở vùng đất cực Nam này, như có lần tôi đã tự bạch trong bài thơ Khuyết vòm trời quê nội: “đâu góc vườn xưa nắm đất cha đào/ gởi lại quê người lá nhau cuốn rún/ cho tôi được làm con xứ sở/ ươm mầm tôi trong hào khí phương Nam”. Vì điều này tôi có thể tự tin nói, mình là người đồng điệu hợp nhãn với chủ nhân của Miền Nam xưa ngái, bởi chúng tôi cùng có chung niềm tự hào vì mình được làm con dân miền Nam chính gốc, Nam Bộ thứ thiệt, chính gốc từ lời ăn tiếng nói, cung cách sống thuần hậu, chấc phác, bộc trực, ngay thẳng và chân tình. Miền Nam xưa ngái chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, không gian trong sách ôm trùm một góc nhỏ Đồng Nai thời mở đất, thời chinh chiến, thời khốn khó của những ngày đầu miền Nam mới giải phóng. Không! Đó không còn là câu chuyện của riêng Đồng Nai, nó được mở rộng cương thổ hơn khái quát hơn. Miền nam xưa ngái được tác giả chia làm bốn phần, mỗi phần gồm nhiều chuyện, mỗi câu chuyện là một lát cắt nho nhỏ so với bề dày bộn bề của cuộc sống, bằng lối viết chân phương đằm thắm dung dị kiệm lời không cầu kỳ khoe chữ hay triết luận cao vời mà bằng những chi tiết rất thực rất đời thường hiện diện trong từng lát cắt nho nhỏ sống động ấy, nhà văn Thu Trân đã làm thức dậy y xì toàn cảnh của một thời Miền Nam xưa ngái với những hỷ nộ ái ố nổi nênh ghềnh thác, chông chênh phận người phận ta. Thật ra Miền Nam xưa ngái được khuôn trong bối cảnh không gian thơi gian Đồng Nai vào khoảng thập niên 60-80 của thế kỷ trước, năm sáu mươi năm một chặn đường, một đời người cũng đã là qua hai đầu thế kỷ với biết bao đổi dời sông núi.

Tôi nghĩ, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trang trọng đặt phần Văn hóa khẩn hoang Nam Bộ mở đầu quyển sách Miền Nam xưa ngái, có phải đây là tâm thế của người cầm viết, có trước có sau quê hương nguồn cội. Văn hóa khẩn hoang Nam Bộ chuyên chở nhiều điều thú vị, là nguồn tư liệu quí bổ ích cho những ai muốn khám phá về một Nam Bộ qua nhiều thời. Và nhất là tác giả dành nhiều chữ nghĩa cho miền phương ngữ miền Nam dẫu là chưa tròn đầy mà tròn đầy sao đặng khi mà điều kiện còn buộc ràng vào giới hạn. Phương ngữ Nam Bộ vốn là một kho tàng văn hóa không kém phần đồ sộ, độc đáo vô nhị, mang sắc thái đặc trưng của vùng đất phương Nam, mỗi từ mỗi câu đều mang dấu ấn lịch sử con người, vùng đất, phong phú mới mẻ và khoáng đạt như chính hơi thở của đất đai. Nhớ hồi còn là sinh viên của trường, tôi từng có tiểu luận chuyên đề về Phương ngữ Nam Bộ đạt điểm tuyệt đối, (xin được mở ngoặc chút xíu xiu, nay nhờ Miền Nam xưa ngái mình có cớ để tự khoe mẻ, xàm xí chút xin mọi người bỏ qua cho) giờ đây bỗng dưng gặp nhau lại trong Miền Nam xưa ngái âu cũng là một cuộc hội ngộ kỳ thú giữa hai người đồng điệu, tác giả và người đọc. Có điều tôi luôn chạnh lòng, ngày nay nhiều từ nhiều câu phương ngữ bị rơi rụng dần mất đi, cũng vì lẽ nầy một lần nữa tôi cảm ơn Miền Nam xưa ngái đã ngoái lại trân trọng gìn giữ miền ngôn ngữ tôi yêu.  

 Miền Nam xưa ngái ngồn ngộn những buồn vui nỗi mình nỗi người đắng đót xót xa, có thể gói gọn trong một chữ tình, và tôi xin được trân trọng viết hoa chữ TÌNH chan chứa ấy. Chứa chan tình người bao dung, tình đất cưu mang, nặng sâu tình làng nghĩa xóm mỗi khi tối lửa tắt đèn, cảm thông chia sẻ đớn đau trong từng mảnh đời số phận con người. Người đọc ắt không thể ngăn dòng nước mắt, không thể không rờn rợn trong nỗi kinh hoàng khi đối diện với Tàu đêm năm cũ, đó là một ám ảnh khôn nguôi của một đời của một thời đen đủi, ngăn sông cấm chợ. Để có được miếng ăn eo hẹp để cho vào những chiếc bụng bủng beo trống rỗng  của lũ con lít nhít, những chiếc bụng còm nhom ốm đói cùa cha mẹ già gần đất xa trời, người ta đã bất chấp sự sống chết hiểm nguy  chen chúc rượt đuổi dẫm đạp chồng chất lên nhau trên chuyến tàu sinh tử, chật chội hôi thúi đến tận cùng ngôn ngữ, và hậu quả của những chuyến tàu đêm như thế đã cướp đi hơn bảy mươi sinh linh, trở thành cô hồn dã quỉ lang thang không chốn quay về, bảy mươi người vĩnh viễn nằm lại bên đường cầu thực, không ai có giấy tờ tùy thân, bảy mươi nấm mộ hoang hiu hắt mọc lên sau vụ tai nạn khủng khiếp lật tàu năm đó, ở địa phận Dầu Giây- Long Khánh. Nước mắt lăn dài theo từng con chữ, rờn rợn nỗi đớn đau của một thời xa ngái. Chữ TÌNH trong Miền Nam xưa ngái còn đọng lại rất đậm sâu trên từng mảnh đời nghiệt ngã trong xóm me Mỹ, những người đàn bà nghèo khó bạc phận vì đủ mọi lý do để trở thành nô lệ đa phương diện cho người Mỹ, đánh đổi nhân phẩm để có cuộc sống không phải của con người đúng nghĩa. Chữ TÌNH yêu thương đùm bọc những mảnh đời bất hạnh trong thân phận những đứa con lai, chúng mãi mãi không biết cha mình là ai, mãi mãi là những đứa trẻ vô thừa nhận, suốt đời trong số kiếp cù bơ cù bất, kể cả khi chúng đang ở ngay chính quê cha (nước Mỹ). Chữ Tình của một quê ngoại rách bươm nghèo khó nhưng đủ tình thương và lòng bao dung hiển hiện đẹp đẽ trong diện mạo của Miền Nam xưa ngái.

Nhà văn Thu Trân đã làm được cái điều mà người cầm viết nào cũng đều mong muốn, đã chạm đến cung bậc cảm xúc của người đọc, chuyển tải những điều muốn gửi gắm chia sẻ đến được trái tim người đọc…

Nguồn Văn nghệ số 36+37/2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm