TIN TỨC

Một chữ tình trong miền Nam xưa ngái

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-08 10:05:42
mail facebook google pos stwis
1538 lượt xem

NGUYỄN BÍNH HỒNG CẦU

Miền Nam xưa ngái gọi ta về một miền ký ức xưa, nơi đó chất chứa bao hoài niệm của một đời một thời, chất chứa nỗi mình nỗi người với bao oan khiên buồn vui vinh nhục thăng trầm máu lệ không chỉ của riêng ai, số phận đời người gắn liền cùng số phận của quê hương đất nước.


Nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu và nhà văn Thu Trân

Bước đi thời cuộc mang theo những dịch chuyển đổi dời giằng xé giữa cũ - mới, mất - còn, để tạo dựng nên những giá trị tinh thần mới mẻ nhưng đồng thời cũng làm xáo trộn không nhỏ, làm mất đi những giá trị đã được xác lập của người xưa. Sự biến thiên nghiệt ngã của thời cuộc hằn sâu thêm những dấu ấn bi hùng lên khuôn mặt lịch sử, đồng thời cũng nhào nặn nhấn chìm tan tác bao phận người phận đời nổi nênh dâu bể khóc cười. Con người và vùng đất của Miền Nam xưa ngái đã lùi sâu vào quá khứ, lớp bụi thời gian đủ dầy đủ cao theo ngày tháng chất chồng, nhưng giờ đây con người và vùng đất nhau rún máu thịt đó được tái hiện qua ngòi bút của chính tác giả, người trong cuộc, nó rờ rỡ tươi rói y xì như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, bởi vùng ký ức đó được lưu giữ trong hồn cốt của người viết, song hành cùng năm tháng đời người.

Tôi lắng lòng mình theo từng trang từng trang Miền Nam xưa ngái và tôi như gặp lại chính mình ở đâu đó trên trang viết của Thu Trân. Bởi tôi cũng có một tuổi thơ không yên bình, một vùng đất máu thịt đẫm máu và nước mắt, đất nước của một thời mang trên mình cuộc chiến tranh tàn khốc. Cũng như các bạn đều biết, gốc gác tôi không phải người Đàng trong mình, nhưng phải nói tôi rất may mắn và rất tự hào vì được cha mẹ sinh ra ở vùng đất cực Nam này, như có lần tôi đã tự bạch trong bài thơ Khuyết vòm trời quê nội: “đâu góc vườn xưa nắm đất cha đào/ gởi lại quê người lá nhau cuốn rún/ cho tôi được làm con xứ sở/ ươm mầm tôi trong hào khí phương Nam”. Vì điều này tôi có thể tự tin nói, mình là người đồng điệu hợp nhãn với chủ nhân của Miền Nam xưa ngái, bởi chúng tôi cùng có chung niềm tự hào vì mình được làm con dân miền Nam chính gốc, Nam Bộ thứ thiệt, chính gốc từ lời ăn tiếng nói, cung cách sống thuần hậu, chấc phác, bộc trực, ngay thẳng và chân tình. Miền Nam xưa ngái chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, không gian trong sách ôm trùm một góc nhỏ Đồng Nai thời mở đất, thời chinh chiến, thời khốn khó của những ngày đầu miền Nam mới giải phóng. Không! Đó không còn là câu chuyện của riêng Đồng Nai, nó được mở rộng cương thổ hơn khái quát hơn. Miền nam xưa ngái được tác giả chia làm bốn phần, mỗi phần gồm nhiều chuyện, mỗi câu chuyện là một lát cắt nho nhỏ so với bề dày bộn bề của cuộc sống, bằng lối viết chân phương đằm thắm dung dị kiệm lời không cầu kỳ khoe chữ hay triết luận cao vời mà bằng những chi tiết rất thực rất đời thường hiện diện trong từng lát cắt nho nhỏ sống động ấy, nhà văn Thu Trân đã làm thức dậy y xì toàn cảnh của một thời Miền Nam xưa ngái với những hỷ nộ ái ố nổi nênh ghềnh thác, chông chênh phận người phận ta. Thật ra Miền Nam xưa ngái được khuôn trong bối cảnh không gian thơi gian Đồng Nai vào khoảng thập niên 60-80 của thế kỷ trước, năm sáu mươi năm một chặn đường, một đời người cũng đã là qua hai đầu thế kỷ với biết bao đổi dời sông núi.

Tôi nghĩ, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trang trọng đặt phần Văn hóa khẩn hoang Nam Bộ mở đầu quyển sách Miền Nam xưa ngái, có phải đây là tâm thế của người cầm viết, có trước có sau quê hương nguồn cội. Văn hóa khẩn hoang Nam Bộ chuyên chở nhiều điều thú vị, là nguồn tư liệu quí bổ ích cho những ai muốn khám phá về một Nam Bộ qua nhiều thời. Và nhất là tác giả dành nhiều chữ nghĩa cho miền phương ngữ miền Nam dẫu là chưa tròn đầy mà tròn đầy sao đặng khi mà điều kiện còn buộc ràng vào giới hạn. Phương ngữ Nam Bộ vốn là một kho tàng văn hóa không kém phần đồ sộ, độc đáo vô nhị, mang sắc thái đặc trưng của vùng đất phương Nam, mỗi từ mỗi câu đều mang dấu ấn lịch sử con người, vùng đất, phong phú mới mẻ và khoáng đạt như chính hơi thở của đất đai. Nhớ hồi còn là sinh viên của trường, tôi từng có tiểu luận chuyên đề về Phương ngữ Nam Bộ đạt điểm tuyệt đối, (xin được mở ngoặc chút xíu xiu, nay nhờ Miền Nam xưa ngái mình có cớ để tự khoe mẻ, xàm xí chút xin mọi người bỏ qua cho) giờ đây bỗng dưng gặp nhau lại trong Miền Nam xưa ngái âu cũng là một cuộc hội ngộ kỳ thú giữa hai người đồng điệu, tác giả và người đọc. Có điều tôi luôn chạnh lòng, ngày nay nhiều từ nhiều câu phương ngữ bị rơi rụng dần mất đi, cũng vì lẽ nầy một lần nữa tôi cảm ơn Miền Nam xưa ngái đã ngoái lại trân trọng gìn giữ miền ngôn ngữ tôi yêu.  

 Miền Nam xưa ngái ngồn ngộn những buồn vui nỗi mình nỗi người đắng đót xót xa, có thể gói gọn trong một chữ tình, và tôi xin được trân trọng viết hoa chữ TÌNH chan chứa ấy. Chứa chan tình người bao dung, tình đất cưu mang, nặng sâu tình làng nghĩa xóm mỗi khi tối lửa tắt đèn, cảm thông chia sẻ đớn đau trong từng mảnh đời số phận con người. Người đọc ắt không thể ngăn dòng nước mắt, không thể không rờn rợn trong nỗi kinh hoàng khi đối diện với Tàu đêm năm cũ, đó là một ám ảnh khôn nguôi của một đời của một thời đen đủi, ngăn sông cấm chợ. Để có được miếng ăn eo hẹp để cho vào những chiếc bụng bủng beo trống rỗng  của lũ con lít nhít, những chiếc bụng còm nhom ốm đói cùa cha mẹ già gần đất xa trời, người ta đã bất chấp sự sống chết hiểm nguy  chen chúc rượt đuổi dẫm đạp chồng chất lên nhau trên chuyến tàu sinh tử, chật chội hôi thúi đến tận cùng ngôn ngữ, và hậu quả của những chuyến tàu đêm như thế đã cướp đi hơn bảy mươi sinh linh, trở thành cô hồn dã quỉ lang thang không chốn quay về, bảy mươi người vĩnh viễn nằm lại bên đường cầu thực, không ai có giấy tờ tùy thân, bảy mươi nấm mộ hoang hiu hắt mọc lên sau vụ tai nạn khủng khiếp lật tàu năm đó, ở địa phận Dầu Giây- Long Khánh. Nước mắt lăn dài theo từng con chữ, rờn rợn nỗi đớn đau của một thời xa ngái. Chữ TÌNH trong Miền Nam xưa ngái còn đọng lại rất đậm sâu trên từng mảnh đời nghiệt ngã trong xóm me Mỹ, những người đàn bà nghèo khó bạc phận vì đủ mọi lý do để trở thành nô lệ đa phương diện cho người Mỹ, đánh đổi nhân phẩm để có cuộc sống không phải của con người đúng nghĩa. Chữ TÌNH yêu thương đùm bọc những mảnh đời bất hạnh trong thân phận những đứa con lai, chúng mãi mãi không biết cha mình là ai, mãi mãi là những đứa trẻ vô thừa nhận, suốt đời trong số kiếp cù bơ cù bất, kể cả khi chúng đang ở ngay chính quê cha (nước Mỹ). Chữ Tình của một quê ngoại rách bươm nghèo khó nhưng đủ tình thương và lòng bao dung hiển hiện đẹp đẽ trong diện mạo của Miền Nam xưa ngái.

Nhà văn Thu Trân đã làm được cái điều mà người cầm viết nào cũng đều mong muốn, đã chạm đến cung bậc cảm xúc của người đọc, chuyển tải những điều muốn gửi gắm chia sẻ đến được trái tim người đọc…

Nguồn Văn nghệ số 36+37/2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm