TIN TỨC

Một chữ tình trong miền Nam xưa ngái

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-08 10:06:58
mail facebook google pos stwis
915 lượt xem

NGUYỄN BÍNH HỒNG CẦU

Miền Nam xưa ngái gọi ta về một miền ký ức xưa, nơi đó chất chứa bao hoài niệm của một đời một thời, chất chứa nỗi mình nỗi người với bao oan khiên buồn vui vinh nhục thăng trầm máu lệ không chỉ của riêng ai, số phận đời người gắn liền cùng số phận của quê hương đất nước.


Nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu và nhà văn Thu Trân

Bước đi thời cuộc mang theo những dịch chuyển đổi dời giằng xé giữa cũ - mới, mất - còn, để tạo dựng nên những giá trị tinh thần mới mẻ nhưng đồng thời cũng làm xáo trộn không nhỏ, làm mất đi những giá trị đã được xác lập của người xưa. Sự biến thiên nghiệt ngã của thời cuộc hằn sâu thêm những dấu ấn bi hùng lên khuôn mặt lịch sử, đồng thời cũng nhào nặn nhấn chìm tan tác bao phận người phận đời nổi nênh dâu bể khóc cười. Con người và vùng đất của Miền Nam xưa ngái đã lùi sâu vào quá khứ, lớp bụi thời gian đủ dầy đủ cao theo ngày tháng chất chồng, nhưng giờ đây con người và vùng đất nhau rún máu thịt đó được tái hiện qua ngòi bút của chính tác giả, người trong cuộc, nó rờ rỡ tươi rói y xì như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, bởi vùng ký ức đó được lưu giữ trong hồn cốt của người viết, song hành cùng năm tháng đời người.

Tôi lắng lòng mình theo từng trang từng trang Miền Nam xưa ngái và tôi như gặp lại chính mình ở đâu đó trên trang viết của Thu Trân. Bởi tôi cũng có một tuổi thơ không yên bình, một vùng đất máu thịt đẫm máu và nước mắt, đất nước của một thời mang trên mình cuộc chiến tranh tàn khốc. Cũng như các bạn đều biết, gốc gác tôi không phải người Đàng trong mình, nhưng phải nói tôi rất may mắn và rất tự hào vì được cha mẹ sinh ra ở vùng đất cực Nam này, như có lần tôi đã tự bạch trong bài thơ Khuyết vòm trời quê nội: “đâu góc vườn xưa nắm đất cha đào/ gởi lại quê người lá nhau cuốn rún/ cho tôi được làm con xứ sở/ ươm mầm tôi trong hào khí phương Nam”. Vì điều này tôi có thể tự tin nói, mình là người đồng điệu hợp nhãn với chủ nhân của Miền Nam xưa ngái, bởi chúng tôi cùng có chung niềm tự hào vì mình được làm con dân miền Nam chính gốc, Nam Bộ thứ thiệt, chính gốc từ lời ăn tiếng nói, cung cách sống thuần hậu, chấc phác, bộc trực, ngay thẳng và chân tình. Miền Nam xưa ngái chính là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, không gian trong sách ôm trùm một góc nhỏ Đồng Nai thời mở đất, thời chinh chiến, thời khốn khó của những ngày đầu miền Nam mới giải phóng. Không! Đó không còn là câu chuyện của riêng Đồng Nai, nó được mở rộng cương thổ hơn khái quát hơn. Miền nam xưa ngái được tác giả chia làm bốn phần, mỗi phần gồm nhiều chuyện, mỗi câu chuyện là một lát cắt nho nhỏ so với bề dày bộn bề của cuộc sống, bằng lối viết chân phương đằm thắm dung dị kiệm lời không cầu kỳ khoe chữ hay triết luận cao vời mà bằng những chi tiết rất thực rất đời thường hiện diện trong từng lát cắt nho nhỏ sống động ấy, nhà văn Thu Trân đã làm thức dậy y xì toàn cảnh của một thời Miền Nam xưa ngái với những hỷ nộ ái ố nổi nênh ghềnh thác, chông chênh phận người phận ta. Thật ra Miền Nam xưa ngái được khuôn trong bối cảnh không gian thơi gian Đồng Nai vào khoảng thập niên 60-80 của thế kỷ trước, năm sáu mươi năm một chặn đường, một đời người cũng đã là qua hai đầu thế kỷ với biết bao đổi dời sông núi.

Tôi nghĩ, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trang trọng đặt phần Văn hóa khẩn hoang Nam Bộ mở đầu quyển sách Miền Nam xưa ngái, có phải đây là tâm thế của người cầm viết, có trước có sau quê hương nguồn cội. Văn hóa khẩn hoang Nam Bộ chuyên chở nhiều điều thú vị, là nguồn tư liệu quí bổ ích cho những ai muốn khám phá về một Nam Bộ qua nhiều thời. Và nhất là tác giả dành nhiều chữ nghĩa cho miền phương ngữ miền Nam dẫu là chưa tròn đầy mà tròn đầy sao đặng khi mà điều kiện còn buộc ràng vào giới hạn. Phương ngữ Nam Bộ vốn là một kho tàng văn hóa không kém phần đồ sộ, độc đáo vô nhị, mang sắc thái đặc trưng của vùng đất phương Nam, mỗi từ mỗi câu đều mang dấu ấn lịch sử con người, vùng đất, phong phú mới mẻ và khoáng đạt như chính hơi thở của đất đai. Nhớ hồi còn là sinh viên của trường, tôi từng có tiểu luận chuyên đề về Phương ngữ Nam Bộ đạt điểm tuyệt đối, (xin được mở ngoặc chút xíu xiu, nay nhờ Miền Nam xưa ngái mình có cớ để tự khoe mẻ, xàm xí chút xin mọi người bỏ qua cho) giờ đây bỗng dưng gặp nhau lại trong Miền Nam xưa ngái âu cũng là một cuộc hội ngộ kỳ thú giữa hai người đồng điệu, tác giả và người đọc. Có điều tôi luôn chạnh lòng, ngày nay nhiều từ nhiều câu phương ngữ bị rơi rụng dần mất đi, cũng vì lẽ nầy một lần nữa tôi cảm ơn Miền Nam xưa ngái đã ngoái lại trân trọng gìn giữ miền ngôn ngữ tôi yêu.  

 Miền Nam xưa ngái ngồn ngộn những buồn vui nỗi mình nỗi người đắng đót xót xa, có thể gói gọn trong một chữ tình, và tôi xin được trân trọng viết hoa chữ TÌNH chan chứa ấy. Chứa chan tình người bao dung, tình đất cưu mang, nặng sâu tình làng nghĩa xóm mỗi khi tối lửa tắt đèn, cảm thông chia sẻ đớn đau trong từng mảnh đời số phận con người. Người đọc ắt không thể ngăn dòng nước mắt, không thể không rờn rợn trong nỗi kinh hoàng khi đối diện với Tàu đêm năm cũ, đó là một ám ảnh khôn nguôi của một đời của một thời đen đủi, ngăn sông cấm chợ. Để có được miếng ăn eo hẹp để cho vào những chiếc bụng bủng beo trống rỗng  của lũ con lít nhít, những chiếc bụng còm nhom ốm đói cùa cha mẹ già gần đất xa trời, người ta đã bất chấp sự sống chết hiểm nguy  chen chúc rượt đuổi dẫm đạp chồng chất lên nhau trên chuyến tàu sinh tử, chật chội hôi thúi đến tận cùng ngôn ngữ, và hậu quả của những chuyến tàu đêm như thế đã cướp đi hơn bảy mươi sinh linh, trở thành cô hồn dã quỉ lang thang không chốn quay về, bảy mươi người vĩnh viễn nằm lại bên đường cầu thực, không ai có giấy tờ tùy thân, bảy mươi nấm mộ hoang hiu hắt mọc lên sau vụ tai nạn khủng khiếp lật tàu năm đó, ở địa phận Dầu Giây- Long Khánh. Nước mắt lăn dài theo từng con chữ, rờn rợn nỗi đớn đau của một thời xa ngái. Chữ TÌNH trong Miền Nam xưa ngái còn đọng lại rất đậm sâu trên từng mảnh đời nghiệt ngã trong xóm me Mỹ, những người đàn bà nghèo khó bạc phận vì đủ mọi lý do để trở thành nô lệ đa phương diện cho người Mỹ, đánh đổi nhân phẩm để có cuộc sống không phải của con người đúng nghĩa. Chữ TÌNH yêu thương đùm bọc những mảnh đời bất hạnh trong thân phận những đứa con lai, chúng mãi mãi không biết cha mình là ai, mãi mãi là những đứa trẻ vô thừa nhận, suốt đời trong số kiếp cù bơ cù bất, kể cả khi chúng đang ở ngay chính quê cha (nước Mỹ). Chữ Tình của một quê ngoại rách bươm nghèo khó nhưng đủ tình thương và lòng bao dung hiển hiện đẹp đẽ trong diện mạo của Miền Nam xưa ngái.

Nhà văn Thu Trân đã làm được cái điều mà người cầm viết nào cũng đều mong muốn, đã chạm đến cung bậc cảm xúc của người đọc, chuyển tải những điều muốn gửi gắm chia sẻ đến được trái tim người đọc…

Nguồn Văn nghệ số 36+37/2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm