TIN TỨC

Nguyễn Vũ Quỳnh - Lời quê như sợi dây thiêng…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-10-24 10:41:27
mail facebook google pos stwis
3770 lượt xem

NGUYỄN THÁNH NGÃ

Đọc "Ru lại lời quê" của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh, chỉ bốn chữ thôi thì "lời quê" đã vô tình chạm vào hai câu kết trong truyện Kiều: "Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh". Chạm chút thôi! Bởi anh không dám “chắp nhặt dông dài” và không “mua vui” mà suy tư về một thời để nhớ. Vậy lời quê không đơn giản là những gì quê mùa, đơn mộc. Lời quê như là sợi dây thiêng liêng, đã cột chặt quá khứ vào hiện tại, và làm nên nỗi nhớ trong hồn người, bây giờ và mai sau...

Và câu hỏi được đặt ra: Tại sao phải ru lại? Bởi "lời quê" đã mất mát quá nhiều sau thời kỳ kinh tế thị trường. Nguyễn Vũ Quỳnh đã "ru lại" lời quê bằng những áng thơ sâu sắc, mang đậm hồn cốt quê hương. Đó là những dòng lục bát nhuần nhị mà sâu sắc, những câu thơ thất ngôn, ngũ ngôn vv... trọn vẹn và ngọt ngào chảy qua tấm lòng người đón nhận, như dòng suối mát chảy về đồng ruộng đang khao khát vào mùa...

Nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh là người con của đất xứ Thanh yêu thương, lớn lên gác lại bút nghiên đi vào quân ngũ. Anh đến vượt Trường Sơn những ngày khói lửa bom đạn mà vẫn lạc quan tinh tế về hình ảnh người chiến sỹ mở đường bằng những lời thơ của người lính từ nhà quê đi ra không còn tả hay hơn được nữa:

ĐăcKarông lạnh lắm sốt mùa Đông

Em xuống tắm cả dòng sông nỗi nóng

        (Trường Sơn gửi lại mai sau)

Và:

Tổ quốc ơi tiếng ru hời

Còn vang vọng đến cỗng trời Trường Sơn

Chiến tranh còn chỗ nào hơn

Mà ta vẫn có nụ hôn chiến trường

        (Tiếng thơ trên đèo Phu La nhích)

Cái chất thơ đẹp trong quảng đời trai trẻ mười chin đôi mươi của Nguyễn Vũ Quỳnh viết trong chiến tranh mà ý nhị hào hoa, lạc quan và lãng mạn đến rất thơ có kém cạnh ai đâu. Những năm tháng xa quê lên đường đi chiến đấu, mang theo nỗi nhớ da diết trong lòng. Những dòng thơ chở nặng ân tình ra đời từ đó...

Đi dọc chiều dài thơ anh trong 8 tác phẩm đã được xuất bản thì có đến 6 tác phẩm thơ. Từ "Khúc hát xa quê" in 2006 đến "Ru lại lời quê" in năm 2023, thì cái từ khóa "thôn quê" trong anh càng hiện ra rõ rệt. Đó là một làng quê đẹp đẽ   nơi chôn nhau cắt rốn của thi sỹ giàu chất quê nơi cánh đồng tuổi thơ và dáng mẹ hiền tần tảo nuôi con. Vì thế anh luôn hướng về:

Dẫu đi trăm nẻo đường xa

Thềm xưa vẫn dáng mẹ ta trở về

          (Trở về)

Một sự trở về đầy niềm tin trong lòng, nhờ thế giá trị làng quê Việt được anh thể hiện qua hai câu thơ mang dấu ấn rất riêng:

Quê ơi! Thơm đến thật thà

Quê từ bếp núc mà ra bây giờ...

          (Thương miền quê xa)

Nghe đã da diết trong lòng, nhưng vẫn chưa đủ. Tôi vô cùng cảm khái hai câu kết trong bài "Thương miền quê xa" như sau:

Về quê cộng với người ta

Vẫn là hai đứa thành ra chúng mình

Đó là một đúc kết có hậu và hữu duyên. Chúng mình là tình yêu. Tình yêu lớn lên từ đó rồi rời xa nhau. Lời "ru lại" bây giờ là rủ rê, ân cần tha thiết nhất:

Về nhé em, về đi thôi

Về quê trên đỉnh bồi hồi gặp xưa

          (Về nơi tiếng trống trường ngày xưa)

Vâng, cái tuyệt đỉnh của sự trở về là gặp lại ngày xưa, người xưa. Ngày xưa của chúng mình trong trẻo quá, người xưa của chúng mình thơ ngây, chân thật quá. Nó đánh thức ký ức và an ủi những ai trắc trở trên đường đời. Rồi một hôm bên dấu tích giếng xưa, nhà thơ đã nhớ về:

Bên giếng xanh ngắt khóm trầu

Cây cau đứng đợi cúi đầu soi gương

Khuya về chấp chới chiêm bao

Nụ cười bên giếng lật nhào trời quê

          (Giếng quê)

Ôi, cái cúi đầu mới đẹp làm sao! Một thi ảnh vừa nhà quê, vừa chân thực, vừa thơ mộng đã quyến dụ trái tim thi sĩ. Giếng quê là tấm lòng ngọt ngào của thiếu nữ dành cho mình, bây giờ trở lại giếng không còn nữa, nhưng hình ảnh trầu cau cho người đọc một nỗi buồn man mát từ cổ tích bay ra. Từ đó, tôi hiểu rằng niềm tin là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất. Nhà thơ khẳng định rằng:

Nơi các dòng sông xuôi về biển cả

Ta vẫn ngược dòng trở lại bến quê

Sông mải miết như cuộc đời của mẹ

Nơi tuổi thơ mình ký ức tràn lên...

            (Ký ức tràn lên)

Rồi anh thành kính thưa với mẹ rằng:

Mẹ ơi! Còn đến hôm nay

Vì con có cả đời này với quê

            (Dan díu với quê)

Quả thật, nếu cả đời này không quê là nỗi bất hạnh, nên anh dành cả đời này cho quê là đạo lý mà người Việt luôn nhắc nhở nhau.

Đã từng đi qua cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc hiểu hết sự hy sinh và mất mát của cả dân tộc, nỗi đau chiến tranh bom đạn tàn khốc. Bây giờ cuộc chiến ấy đã qua bốn mươi sáu năm rồi nhưng cuộc chiến với Covid vừa rồi đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người dân, nỗi đau ấy đến dòng sông cũng bật khóc:

Đi qua phố cuối chiều

Dòng sông như bật khóc

Lá bay mùa tang tóc

Mây trời buồn lang thang

      (Mắt phố buồn)

Bài thơ “Nếu không” cho người đọc một nỗi buồn man mát, sáng trong nhưng dào lên là một chi tiết thú vị mà người thơ tiếc ngẩn tiếc ngơ:

Tương tư nơi bến sông chờ

Bần thần ngoảnh lại sửng sờ đang trưa

Giận thay lúc ấy cơn mưa

Nếu không nay đã... còn chưa bây giờ

Ồ! Chỉ tại cơn mưa vô cớ kia đã làm lỡ một cơ hội chăng? Có lẽ là như vậy, chỉ có mưa mới giữ chân người ấy không kịp đến cuộc hẹn, mà tôi đồ rằng ấy là lần hẹn của “cuộc chia ly màu đỏ" trong thơ Nguyễn Mỹ thời chiến tranh Cách Mạng. Thế rồi chiến tranh đi qua, người lính ấy trở về ôm ấp tình quê hương, anh chợt gọi tên một nỗi niềm lạ lẫm mà thân quen:

Dáng ai xa nơi phía cuối triền đê

Cứ nghiêng ngửa ùa vào ta lạ thế

Năm tháng đi qua bao mùa hoa khế

Chuyến xe chiều về phía cuối làng ta

        (Phía sau cánh đồng)

Cuộc sống đã an bài, nhà thơ của chúng ta đã chọn bình an cho tâm hồn. Đó là cách duy nhất để được sống trong tình người, tình yêu xứ sở:

Thôi đừng trách nữa tình yêu

Thắp đèn đốt đuốc mà thiêu nỗi buồn

Mưa rơi chẳng ướt cánh chuồn

Con tim lỗi nhịp cánh buồm chơi vơi

        (Nhớ về quê xưa)

Chơi vơi một chút thôi, để rồi trở về với tin yêu chủ đạo của hồn người. Tình quê luôn dang rộng vòng tay đón bước đứa con xa. Trầm lắng trong tĩnh lặng, nhà thơ nhận ra một lẽ đời suy nghiệm:

Đâu phải đời bão giông

Mà tiếng mưa rụng xuống

Đâu phải hoa rau muống

Nhuộm tím chiều hoàng hôn

        (Đâu phải)

Vâng, đâu phải thế! Nhưng nhà thơ cũng phải làm tròn bổn phận với lòng mình là "Đưa người ta không đưa qua sông" (Thâm Tâm), bằng cách gọi:

Đò ơi! Đỏ một khoảng chiều

Chờ tôi lẩy một câu Kiều làm tin

Đất cằn càng tím hoa sim

Trong nỗi đau, tiếng đàn kìm vẫn trong

         (Đò ơi)

Trong tâm thế ấy, tôi cho rằng tiếng gọi "Đò ơi!", đã vang lên trong lòng tác giả, nhưng cũng vang trong tâm thức muôn người. Bởi nói như Pushkin:"Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi". Nguyễn Vũ Quỳnh hiểu điều đó, cả đời yêu văn chương, và đắm đuối với thi ca, nhà thơ đã bén rễ, đã lao động quên mình trên cánh đồng chữ nghĩa đầy gian lao. Cuối cùng đã cho ra một trải nghiệm, một đúc kết vô giá:

Sóng ngầm bão tố mưa sa

Thơ là rượu đã chắt qua lẽ đời!

          (Hôm nay và mai sau)

Rượu ấy, đã lọc qua lẽ đời đục trong. Bây giờ chỉ còn thơ là thứ giọng điệu mà thi sĩ phải hát, phải bật lên khúc nhạc của hồn mình, để gọi ra những cảm xúc, những rung động sâu xa, dành tặng quê hương và tặng cuộc đời...
 

TP. HCM tháng cuối tháng 10.2023
N.T.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm