TIN TỨC

Nguyễn Vũ Quỳnh người hát lời quê hương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-07-22 15:52:10
mail facebook google pos stwis
372 lượt xem

XUÂN TRƯỜNG
(Đọc tập thơ  Ru lại lời quê của Nguyễn Vũ Quỳnh)

Nguyễn Vũ Quỳnh thuộc thế hệ thanh niên dấn thân yêu đời từ con nhà nông cầm súng ra trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Thời bình trở lại, anh rũ bụi khói chiến trường về lại giảng đường, về với cánh đồng văn, ruộng báo vẫn trong màu áo nhà binh. Anh đã giã từ quê hương tuổi thơ, mẹ già và bao nhiêu ước mơ đầu đời để lên đường ra trận, dạn dày với nắng gió trong đạn bom vẫn lạc quan dan díu với thơ: Tổ quốc ơi tiếng ru hời/ Vẫn vang vọng đến cổng trời Trường Sơn. (Tiếng thơ trên đèo Phu La nhích). Tuổi trẻ của Nguyễn Vũ Quỳnh vượt qua bao nhiêu gian khó thăng trầm, bụi thời gian đã hóa trầm tích trên màu quân phục.

Ngày về trong thanh bình, người lính lại phải tồn tại trong một môi trường sống khác đó là áo cơm, tình yêu, hạnh phúc cho bản thân, tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước quê hương. Hành trình này cũng vô cùng khó khăn không kém thời chinh chiến. Có lẽ ngày lên đường xa quê Nguyễn Vũ Quỳnh đã thầm gieo những hạt thơ xuống cánh đồng quê hương tuổi thơ, mảnh vườn yêu dấu mưa nắng quê nhà. Do vậy mà ngày về những câu thơ đã bật mầm ký ức nở ra hoa thơm trái ngọt dâng tặng quê hương bởi tình quê luôn đau đáu và thường trực trong tâm hồn anh.

Trên hành trình cơm áo những trải nghiệm cuộc đời, những đa đoan thiên hạ càng làm cho anh thương nhớ về quê hương “Bao nhiêu ngần ấy với quê /Vẫn thao thức mãi ngày về đêm nay / Năm xưa Mẹ nhặt tháng ngày / Cõng đời con nặng luống cày chân đê” (Tự tình với quê). Cái hồn quê đã nhập vào anh và anh đã biết đời mình chưa thấm vào đâu với mái ngói đình làng đã trầm tích thời gian. Phải chăng anh muốn níu lại hồn quá khứ để mà thao thức, để mà nhớ thương, để mà tưởng niệm: “Bao nhiêu phiên khúc đời mình / Chưa bằng đời ngói sân đình làng tôi” (Tự tình với quê). Nếu cái cảnh quê đã đã quyến luyến anh đến thế thì cái tình quê lại rạo rực trái tim anh “Người dưng nay đã đưa nôi / Vẫn còn khất mãi một lời hát xưa / Vẫn tà áo trắng trong mưa / Để em hát lại lời xưa ấy mà”. Đó là những khổ thơ mở cửa cho ta đi vào vườn thơ trữ tình của Nguyễn Vũ Quỳnh. Lang thang trong “Tình tự với quê” của nhà thơ, tôi đã bắt gặp những bà mẹ tảo tần, những người cha sương nắng, những người quê thật thà như lúa, như khoai. Ta bắt gặp tuổi thơ hồn nhiên dậy thì tinh khiết như hương hoa cải. Những ngọn rau rừng Trường Sơn, những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội đi trong lửa đạn, những con đường ra trận gian khổ một thời. Tất cả đều gắn bó hữu cơ máu thịt với cánh đồng làng mà ra hôm nay nơi ký ức vẫn tươi xanh, dấu ấn bao đời của văn minh lúa nước. Phép nhân hóa của nhà thơ đã thi vị biết bao khi ta bắt gặp hình tượng cánh đồng và người quê nói chuyện với nhau, chất vấn và trả lời với nhau. “Chưa biết lẽ đời, chưa hiểu hết nhà nông/ Một nắng hai sương cánh đồng làng, xóm/ Lam lũ nhọc nhằn bàn tay như mắt khóm/ Cãi nhau với cả thời gian/ Chất vấn được mất cánh đồng/ …” (Chất vấn cánh đồng), đây cũng là những ý lạ trong thơ Nguyễn Vũ Quỳnh đã làm sống động lại cảnh quê, nhất là trong nhịp độ đô thị hóa ngày nay, không khéo “đi xa mất chỗ trở về.” Những âm thanh vừa lạ, vừa quen vang lên đâu đây làm cho không gian thơ Nguyễn Vũ Quỳnh lưu chuyển những luồng sinh khí mới như: Tiếng cãi nhau với thời gian. Tiếng chất vấn cánh đồng. Tiếng gió bay của khói lam chiều. Tiếng võng đưa. Tiếng trống trường. Tiếng tắc kè. Tiếng thì thầm của con song, con suối. Còn nhiều thứ tiếng nữa mà càng cảm nhận ta sẽ bắt gặp cái hay ở đó. Những câu thơ viết trên ngọn rau rừng, thơm lừng hương sắc. Những cô gái Thanh Niên Xung Phong mười tám đôi mươi trên đường ra trận: “Nơi bom đạn chiến tranh/ Ở Trường Sơn giữa hai đầu trận đánh/ Em đi hái rau rừng/ Ngọn lá tàu bay non quá /Sau mưa dầm vắt bung lên cành lá/ Búng vào khoảng lặng miên man”. Cái xao xuyến bất ngờ của tuổi thành niên trong giây phút đã nhường lại cho tinh thần ra trận hôm nay: “Anh ngắt lá mua … em đừng sợ vắt/ Vòm ngực trần long lanh ánh mắt/Hồi hộp đầu đời người ra trận hôm nay”. Dấu ấn Trường Sơn với những người lính trẻ chẳng bao giờ quên được bởi đó là những kỷ niệm sâu sắc: “Đakrông lạnh lắm suốt mùa Đông/ Em xuống tắm cả dòng sông nổi nóng/ Hoa ven bờ cũng thầm ghen bóng/ Nụ em hồng của ngà ngọc Mẹ cho/ Đời lính đi qua dốc Khỉ, đèo Ho/ Chỉ áo xuân hè với vành mũ cối/ Tiếng phập phồng con tim bối rối/ Lúc nữa khuya xoa ngực bỗng bật cười” (Trường Sơn gửi lại mai sau),“Em xuống tắm cả dòng sông nổi nóng”.Lúc nửa khuya xoa ngực bỗng bật cười.” Hình tượng đẹp quá, giàu chất thơ, làm ta xao xuyến lâng lâng. Đó là những phát hiện rất riêng mà lung linh đẹp như bài ca người lính.

Thường thì ta xa nhà chứ đâu phải nhà xa ta, bởi vì nhà đã gắn liền trên quê cha đất tổ, do vậy ai đi đâu cũng muốn về nhà. Hình ảnh của người Mẹ luôn luôn gắn liền với nhà nên khi ta nhớ nhà là nhớ tất cả, nỗi nhớ nhà đã đi vào thi ca tự ngàn xưa và bây giờ Nguyễn Vũ Quỳnh dù có đi đâu rồi cũng muốn về ngã vào lòng Mẹ để tìm lại lời ru, tìm lại thời thơ ấu tuổi thần tiên: “Con không thể quên muối mặn gừng cay/ Dù ở nơi đâu cuộc sống có vơi đầy/ Con vẫn mong về vui vầy bên Mẹ/ Ngủ nhà mình nghe Mẹ kể chuyện xưa”(Viết lại lời quê). Nguyễn Vũ Quỳnh đi nhiều, giàu trải nghiêm, giàu chất sống, những bước chân lãng du thi ca qua nhiều miền đất nước. Do vậy anh đã chọn cách nói biểu cảm của thi nhân và nhịp điệu khác nhau cho thơ mình khi thì nhanh trong như sông nước miền Trung mùa khô, khi thì chậm ngọt như sông nước Cửu Long. Thơ anh khi thì nhẹ nhàng như mây bay gió thoảng và dồn dập như mưa đại ngàn Trường Sơn, khi thì nhịp quân hành. Cách chọn đa đề tài, nhiều cách thể hiện, làm phong phú nội dung ngôn ngữ thơ thật thà dí dỏm mà bay bổng sâu lắng, đọng mãi trong lòng người. Nơi đâu Nguyễn Vũ Quỳnh đã qua anh đều để lại những cảm xúc rất riêng của mình và nơi địa đầu Tổ Quốc anh cảm nhận: “Lên Lũng Cú nói những điều mong ước/ Kịp chào cờ Tổ Quốc buổi ban mai/ Nghe tiếng khèn đường xa em chẳng ngại/ Rượu ngô say mềm ngẫu hứng những chàng trai…Bông hoa rừng những phút giây bối rối/ Nhưng chưa nơi nào đẹp như em hôm nay” (Em đẹp nhất hôm nay). Ra tới Trường Sa nơi biển đảo thiêng liêng của Tổ Quốc, nơi muôn trùng sóng gió anh viết: “Ở đảo Sinh Tồn khi bình minh lên/ Là nỗi nhớ hòa vào với biển/ Nơi ngày đêm đã hóa thành kỷ niệm/ Nghe Hương thầm tiếng hát giữa trùng khơi” (Mai em về Trường Sa)

 Trong Ru lại lời quê anh có nhiều bài viết về quê hương đất nước nhưng tựu trung ở tập thơ này anh muốn nói với những người xa làng quê về phố, những người đi xa Tổ quốc bằng bài thơ, lời thơ nhắn gửi: Về nơi tiếng trống sân trường ngày xưa bắt đầu bằng từ Về. Để: “Về nơi đàn sếu đàn giang/ Liệng qua đồng lúa, nghiêng sang sườn đồi/ Về nhé em, về đi thôi/ Về quê lên đỉnh bồi hồi gặp xưa” và trong bài: Thương miền quê xa, với bốn mươi hai câu thơ thì trong bài với ba mươi chín từ đầu câu thơ bắt nguồn bằng từ Quê: “Quê trong Ví dặm lứa đôi/ Quê làng Quan họ người ơi đừng về/ Quê nơi vuông chiếu chú hề/ Quê làn chèo cổ, đình quê hội làng/ Quê câu Dạ cổ hoài lang/ Quê bao vất vả bên hàng dừa xanh/ Quê nơi gương vỡ lại lành/ Quê cánh cò lã ru thành lời ca/ và cuối cùng: Về quê cộng với người ta/ Vẫn là hai đứa thành ra chúng mình”. Viết những vần thơ như vậy dễ nhớ, dễ thương mà thấm thía gần gủi với quê. Với hai mươi bốn câu thơ bắt đầu bằng từ về đầu tiên: “Về đi em giữa yêu thương/Về nơi tiếng tróng sân trường ngày xưa và cuối cùng là: Về đi em, về đi thôi/ Về quê trên đỉnh bồi hồi gặp xưa” như đã dục giã bước chân tha hương ai mà không muốn trở về cho ta thấy quê hương nghĩa nặng biết bao nhiêu. Những câu thơ sâu lắng ân tình mà nhà thơ đã tạo dựng nên thi ảnh nghệ thuật khúc chiết như vậy làm người đọc cảm thấy bâng khuâng.

 Nhà thơ Cựu chiến binh Nguyễn Vũ Quỳnh có những câu thơ bảng lãng mà rung động con tim khi tìm thăm đồng đội trên nghĩa trang Liệt sĩ như kết nối giữa chiến tranh và hòa bình, tỏ rõ lòng biết ơn, tri ân những người nằm xuống cho đất nước đứng lên, cho hòa bình lập lại, không có sự mất mát nào ở nước ta lớn hơn thế nữa : “Đồng đội ơi sao chúng mày nghiêm thế/ Cứ mãi xếp hàng không chịu tản ra/ Khi còn sống đã xếp hàng đều đặn /Hy sinh rồi hàng vẫn xếp thẳng ngay… và: Đồng đội ơi chúng ta chẳng đứa nào mà không có tên/ Khi điểm danh đứa nào cũng có/ Lúc ngã xuống trong bom rơi đạn nổ? Trên mộ phần tên người có người không”. Nỗi đau chiến tranh còn đọng đến bây giờ, Nguyễn Vũ Quỳnh đã khơi dòng cảm xúc, nơi các đồng đội từng một thời ra trận đã ngã xuống không trở về với Mẹ, đau xót mà nghẹn ngào có phải thế không hỡi những người còn sống: “Chiều Trường Sơn nhè nhẹ khói hương thơm / Nơi đồng đội tôi đang tập hợp trở về/ Đã cùng nhau chung mười lời thề/ Giữ non nước này cho Tổ Quốc bình yên”. Hố bom có thể được lấp đầy thành đồng ruộng, mọi thứ đổ nát có thể xây dựng lại nhưng con người đã mất đi thì không thể nào sống lại, do vậy việc đền ơn đáp nghĩa phải luôn luôn được quan tâm trong suốt chiều dài lịch sử, không thể có giây phút nào quên.

Nguyễn Vũ Quỳnh luôn luôn trăn trở nhớ thương đồng đội, những kỷ niệm quê hương, những rung cảm đầu đời, những lời ru của Mẹ, những thay đổi đến chóng mặt trong tiến trình đô thị hóa, tất cả đã làm nên chất liệu cho thơ anh nhẹ nhàng mà sâu lắng, ấm áp nhưng không thiếu những khoảng lặng hiện thực cuộc sống nhưng không thiếu những ảo điệu xuyến xao. Ngày nay ta đi trong phố bỗng nhiên gặp những chiếc cổng làng giữa đô thị thanh bình với bao vết tích chiến tranh, do vậy Nguyễn Vũ Quỳnh còn giàu vốn liếng để viết về đô thị ngày xưa và hôm nay. Tôi tin rằng trong những tập tới anh còn viết về quê hương đất nước và con người mới mẻ hơn. Nguyễn Vũ Quỳnh đang vẫy gọi chúng ta vào vườn thơ trữ tình của anh để thấm thía thi vị đời sống thơ anh.

TP. HCM, ngày 5 tháng 3 năm 2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm