TIN TỨC

Trần Đàm đi tìm một bản ngã

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-29 15:28:21
mail facebook google pos stwis
345 lượt xem

LÊ QUANG SINH

Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời. Cuối năm, cuốn lý luận phê bình, đầu năm cuốn thơ. Thoắt vừa bản Lác lại đã thấy ông tíu tít với lúa vàng, lúa xanh, với ruộng bậc thang ở Phù Luông. Cứ thế, ngắm ảnh ông chụp, đọc sách ông viết. Hoa cả mắt. Trời phú cho ông mãnh lực, ông lướt đi tất cả, không sợ sệt, không do dự và vì thế đích cuối cùng luôn có mặt ông.

Đi nhiều nơi, ngắm nhiều cảnh, cảm xúc cứ thế thấm vào ông tự nhiên, đa sắc... để rồi khi ông nâng ống kính, ánh sáng cứ thế ùa vào. Khi ông cầm lấy bút, con chữ cứ thế sinh sôi, tha hồ ông sắp đặt, cảm tác. Thơ ông bắt đầu hình thành cách nói, một bản ngã. Cảm hơn, đa nghĩa hơn:

Ba lần ta đến Tủa Chùa

Sương giăng kín bản, gió lùa quắt non.

(Sương giăng Tủa Chùa)

Hay:

Bếp lửa đỏ cha ngồi hơ tuổi tác

Tiếng khèn xa vọng lại bồn chồn

(Bản Lát)

Sương giăng kín bản, gió lùa quắt non. Có nói gì đến rét mướt đâu mà thấy buốt tê người.

- Cha ngồi hơ tuổi tác. Cần gì phải nhiều lời, nhiều chữ về cha đâu mà vẫn thấy cuộc đời cha mồn một.

Thơ là vậy đó. Kiệm lời, chỉ cảm thôi.

Tìm cách nói cho thơ mình. Nói một cách khác là đi tìm một giọng điệu riêng là khao khát của tất cả những ai cầm bút muốn thành thi sỹ. Nó vắt kiệt trí não, sức lực nếu anh muốn đi đến đích. Nó không có chỗ dành cho sự lười biếng, càng không có chỗ cho những giấc mơ hỗn loạn. Người đọc sẽ quên anh sau những ồn ào, hoan hỉ, trống mở cờ rong. Trần Đàm thoắt nhìn có vẻ như tất cả sự lích kích của ông chỉ là cớ đi tìm thú để chơi. Nhưng gần ông một chút ta thấy ông thức khuya dậy sớm, ta thấy ông tất bật với thời gian. Nhọc nhằn với con chữ.

Thế thì chơi nỗi gì? Hình như trong ông không có ý nghĩ về tuổi tác, thay vào đó là suy tư, dằn vặt: Ta làm được điều gì, khẳng định được chân lý nào giữa thế gian xô bồ, hư thực:

Đêm dài thao thức bình minh

Tiếng con chim lạc một mình gọi khuya

.....

Em mang câu lục tìm chồng

Cứ mong câu bát thuận vòng chúng sinh

 (Lục bát tìm nhau)

Tiếng con chim lạc một mình gọi khuya - Chả phải là hình ảnh ông đó ư! 

Cái sự khác người, khác lẽ tự nhiên, cứ băm ông ra ngấu ông vào con chữ. Tìm đến một bản ngã, làm ông cặm cụi, làm ông thất thường, ăn ngủ không yên. Người đời đôi khi nhìn cảnh đó thường buột miệng: - Lẩn thẩn mất rồi!

Ai hiểu được cho ông nỗi lòng. Ai sẻ chia được cho ông niềm đam mê trời phú. “Tìm được câu lục rồi, lại mơ về câu bát”. Cái lý trời đày cứ vần vũ, tiếp nối mà hành hạ thân xác, mà khúc khích cười nhạo chân lý chúng sinh.

Tìm cho mình một cách nói là tạo cho mình một chân dung. Để rồi, dù anh đứng ở đâu, ngồi ở đâu, người đọc vẫn nhận ra anh không lẫn với bóng dáng người khác.

Sự khác lạ dẫn đến vẻ đẹp, dẫn đến thẩm mỹ. Đó là cách rạch đá tìm ngọc, cách tiếp cận chân lý từ những điều vô lý, làm cho trí tưởng tượng bay lên, làm cho chân trời trở nên vô định. Thơ phải đi vào ngõ ngách sâu thẳm ấy mà phát lộ:

Trăng se giọt mật

Rỏ ngọt mắt lá

Tiếng đêm êm ả

Bỗng thành lời ru.

(Chiếc lá)

Bốn câu thơ như hiện lên cùng một chớp mắt, thi sĩ cùng một lúc cảm nhận được thế giới xung quanh bằng tất cả giác quan thiên bẩm của mình - Thị giác, khứu giác, vị giác,... Và cả con tim nữa. Một thế giới đa cảm, óng ánh mang hơi thở của nhân thế.

Bài Chiều xuân Na Mèo, Trần Đàm đã tìm được cho mình một cách nói, một bản ngã mà ở đó câu chữ mang đậm tư duy thơ:

Con suối nhớ mây gõ vào lèn đá

Gõ vào lời khặp bếp lửa đông người.

Thiên nhiên sống động mang hồn vía con người. Con người lại chạm vào thiên nhiên để nhận về cảm xúc, để nhận về lửa ấm. Thơ anh nhiều câu vừa hiện sinh vừa mơ hồ đọc lên thấy nhớ, thấy mông lung:

Dây trầu vấn vít buồng cau

Mình ơi tận hưởng hết màu tháng Ba

(Tháng ba).

Tôi chả biết tháng Ba có màu gì, theo ông cứ mông lung vậy. Nhưng tôi biết cái dây trầu kia, cái buồng cau nọ đang vấn vít, quấn quýt nhau, ắt hẳn cái màu tháng ba không thể xám được, không thể mịt mù tăm tối được. Cái màu hạnh phúc ấy tha hồ cho trí tưởng tượng thêu dệt, vẽ vời. Ai bảo đó không phải một câu thơ hay! Ai bảo đó không phải là cách nói thơ giàu cảm xúc.

Gần đây, thơ Trần Đàm đã dày lên phần cảm, ông đã biết cách gạn bớt đi phần vỏ để phần lõi có cơ tạo vòng. Ta không khó tìm ra nhưng câu hay khi đọc thơ ông. Đó là kết quả sự mất ngủ của lửa. Nhiều lúc tôi nhủ thầm, động viên - Cố lên anh! Nhưng lại nghĩ mình ác quá. Phận trời đã đày rồi, thêm người đày nữa có làm ông quá sức chăng!

Nhưng mà, có gì đó cứ mông lung trong tôi như thơ ông vậy. Nhỡ mà ông thôi không viết nữa, lấy đâu ra đêm dài trên bàn phím với những chộn rộn, miên man:

Gió xuân thắt đáy lưng tròn

Cánh buồm con, cánh buồm cong cửa trời.

Đây nữa:

Những tia nắng

Thả thang xuống cánh đồng

Và đây nữa:

Chợ phiên tuần có một lần

Một lưng củi với một thung gió đầy

...

Có tiếng khèn núi vọng lại mơ hồ...

Có tiếng người chộn rộn nữa!

Không đó là tiếng con tim thổn thức:

Kiếp người chẳng phút thảnh thơi

Chẳng ai bắt, chẳng ai đòi dấn thân

Mấy câu lục bát lỗi vần

Ứa ra từ những nợ nần mộng mơ

Và thế là tôi lại thao thức với ông đến sáng.
 

Lập Hạ 5.2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm