TIN TỨC

Trần Đàm đi tìm một bản ngã

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-29 15:27:44
mail facebook google pos stwis
1029 lượt xem

LÊ QUANG SINH

Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời. Cuối năm, cuốn lý luận phê bình, đầu năm cuốn thơ. Thoắt vừa bản Lác lại đã thấy ông tíu tít với lúa vàng, lúa xanh, với ruộng bậc thang ở Phù Luông. Cứ thế, ngắm ảnh ông chụp, đọc sách ông viết. Hoa cả mắt. Trời phú cho ông mãnh lực, ông lướt đi tất cả, không sợ sệt, không do dự và vì thế đích cuối cùng luôn có mặt ông.

Đi nhiều nơi, ngắm nhiều cảnh, cảm xúc cứ thế thấm vào ông tự nhiên, đa sắc... để rồi khi ông nâng ống kính, ánh sáng cứ thế ùa vào. Khi ông cầm lấy bút, con chữ cứ thế sinh sôi, tha hồ ông sắp đặt, cảm tác. Thơ ông bắt đầu hình thành cách nói, một bản ngã. Cảm hơn, đa nghĩa hơn:

Ba lần ta đến Tủa Chùa

Sương giăng kín bản, gió lùa quắt non.

(Sương giăng Tủa Chùa)

Hay:

Bếp lửa đỏ cha ngồi hơ tuổi tác

Tiếng khèn xa vọng lại bồn chồn

(Bản Lát)

Sương giăng kín bản, gió lùa quắt non. Có nói gì đến rét mướt đâu mà thấy buốt tê người.

- Cha ngồi hơ tuổi tác. Cần gì phải nhiều lời, nhiều chữ về cha đâu mà vẫn thấy cuộc đời cha mồn một.

Thơ là vậy đó. Kiệm lời, chỉ cảm thôi.

Tìm cách nói cho thơ mình. Nói một cách khác là đi tìm một giọng điệu riêng là khao khát của tất cả những ai cầm bút muốn thành thi sỹ. Nó vắt kiệt trí não, sức lực nếu anh muốn đi đến đích. Nó không có chỗ dành cho sự lười biếng, càng không có chỗ cho những giấc mơ hỗn loạn. Người đọc sẽ quên anh sau những ồn ào, hoan hỉ, trống mở cờ rong. Trần Đàm thoắt nhìn có vẻ như tất cả sự lích kích của ông chỉ là cớ đi tìm thú để chơi. Nhưng gần ông một chút ta thấy ông thức khuya dậy sớm, ta thấy ông tất bật với thời gian. Nhọc nhằn với con chữ.

Thế thì chơi nỗi gì? Hình như trong ông không có ý nghĩ về tuổi tác, thay vào đó là suy tư, dằn vặt: Ta làm được điều gì, khẳng định được chân lý nào giữa thế gian xô bồ, hư thực:

Đêm dài thao thức bình minh

Tiếng con chim lạc một mình gọi khuya

.....

Em mang câu lục tìm chồng

Cứ mong câu bát thuận vòng chúng sinh

 (Lục bát tìm nhau)

Tiếng con chim lạc một mình gọi khuya - Chả phải là hình ảnh ông đó ư! 

Cái sự khác người, khác lẽ tự nhiên, cứ băm ông ra ngấu ông vào con chữ. Tìm đến một bản ngã, làm ông cặm cụi, làm ông thất thường, ăn ngủ không yên. Người đời đôi khi nhìn cảnh đó thường buột miệng: - Lẩn thẩn mất rồi!

Ai hiểu được cho ông nỗi lòng. Ai sẻ chia được cho ông niềm đam mê trời phú. “Tìm được câu lục rồi, lại mơ về câu bát”. Cái lý trời đày cứ vần vũ, tiếp nối mà hành hạ thân xác, mà khúc khích cười nhạo chân lý chúng sinh.

Tìm cho mình một cách nói là tạo cho mình một chân dung. Để rồi, dù anh đứng ở đâu, ngồi ở đâu, người đọc vẫn nhận ra anh không lẫn với bóng dáng người khác.

Sự khác lạ dẫn đến vẻ đẹp, dẫn đến thẩm mỹ. Đó là cách rạch đá tìm ngọc, cách tiếp cận chân lý từ những điều vô lý, làm cho trí tưởng tượng bay lên, làm cho chân trời trở nên vô định. Thơ phải đi vào ngõ ngách sâu thẳm ấy mà phát lộ:

Trăng se giọt mật

Rỏ ngọt mắt lá

Tiếng đêm êm ả

Bỗng thành lời ru.

(Chiếc lá)

Bốn câu thơ như hiện lên cùng một chớp mắt, thi sĩ cùng một lúc cảm nhận được thế giới xung quanh bằng tất cả giác quan thiên bẩm của mình - Thị giác, khứu giác, vị giác,... Và cả con tim nữa. Một thế giới đa cảm, óng ánh mang hơi thở của nhân thế.

Bài Chiều xuân Na Mèo, Trần Đàm đã tìm được cho mình một cách nói, một bản ngã mà ở đó câu chữ mang đậm tư duy thơ:

Con suối nhớ mây gõ vào lèn đá

Gõ vào lời khặp bếp lửa đông người.

Thiên nhiên sống động mang hồn vía con người. Con người lại chạm vào thiên nhiên để nhận về cảm xúc, để nhận về lửa ấm. Thơ anh nhiều câu vừa hiện sinh vừa mơ hồ đọc lên thấy nhớ, thấy mông lung:

Dây trầu vấn vít buồng cau

Mình ơi tận hưởng hết màu tháng Ba

(Tháng ba).

Tôi chả biết tháng Ba có màu gì, theo ông cứ mông lung vậy. Nhưng tôi biết cái dây trầu kia, cái buồng cau nọ đang vấn vít, quấn quýt nhau, ắt hẳn cái màu tháng ba không thể xám được, không thể mịt mù tăm tối được. Cái màu hạnh phúc ấy tha hồ cho trí tưởng tượng thêu dệt, vẽ vời. Ai bảo đó không phải một câu thơ hay! Ai bảo đó không phải là cách nói thơ giàu cảm xúc.

Gần đây, thơ Trần Đàm đã dày lên phần cảm, ông đã biết cách gạn bớt đi phần vỏ để phần lõi có cơ tạo vòng. Ta không khó tìm ra nhưng câu hay khi đọc thơ ông. Đó là kết quả sự mất ngủ của lửa. Nhiều lúc tôi nhủ thầm, động viên - Cố lên anh! Nhưng lại nghĩ mình ác quá. Phận trời đã đày rồi, thêm người đày nữa có làm ông quá sức chăng!

Nhưng mà, có gì đó cứ mông lung trong tôi như thơ ông vậy. Nhỡ mà ông thôi không viết nữa, lấy đâu ra đêm dài trên bàn phím với những chộn rộn, miên man:

Gió xuân thắt đáy lưng tròn

Cánh buồm con, cánh buồm cong cửa trời.

Đây nữa:

Những tia nắng

Thả thang xuống cánh đồng

Và đây nữa:

Chợ phiên tuần có một lần

Một lưng củi với một thung gió đầy

...

Có tiếng khèn núi vọng lại mơ hồ...

Có tiếng người chộn rộn nữa!

Không đó là tiếng con tim thổn thức:

Kiếp người chẳng phút thảnh thơi

Chẳng ai bắt, chẳng ai đòi dấn thân

Mấy câu lục bát lỗi vần

Ứa ra từ những nợ nần mộng mơ

Và thế là tôi lại thao thức với ông đến sáng.
 

Lập Hạ 5.2024

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm