TIN TỨC

Nguyễn Vỹ không muốn gánh kho vàng mơ mộng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-12-25 15:10:58
mail facebook google pos stwis
872 lượt xem

Nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971) với tôi như một hiện tượng nóng bỏng tâm trạng thế sự. Ông là một nghệ sĩ cuối cùng luôn gieo vần khó ở chân câu.

Nhà thơ Nguyễn Vỹ tại Sài Gòn, năm 1965.

Bên cạnh những dòng thơ say đến chát chúa mang tên Nguyễn Vỹ tôi lại hình dung ông như một chiến binh hai tay hai súng cưỡi ngựa hí vang trời. Ông luôn hát bài ca của mình giữa cuộc đời đầy gai góc, đòi lại sự công bằng và tình yêu thương cho con người.

Ngạo nghễ bất chấp tù đày

Không mấy ai làm báo đến liều mạng như Nguyễn Vỹ. Ông lập báo riêng với những cái tên như Tổ Quốc, Dân Chủ, Dân Ta, Bông Lúa, Thằng Bờm trước mũi súng của thực dân Pháp và giặc Nhật. Ngay từ năm đầu lập báo Le Cygne (Bạch Nga) vào năm 1937, Nguyễn Vỹ đã bị chính quyền Pháp bắt và kết tội chỉ vì đã viết loạt bài phê phán đường lối cai trị của thực dân Pháp. Không những tờ báo vì cấm vĩnh viễn mà chủ bút Nguyễn Vỹ còn bị phạt 3.000 quan và 6 tháng tù giam.

Thân ở trong tù nhưng chí lớn vẫn chờ đợi và âm ỷ làm thơ: “Trăng với chó tự do ngoài sân ngục / Tôi bị giam sau bốn bức tường cao”. Hai năm sau chiến sự đất nước thay đổi khi Nhật đánh Pháp và chiếm đóng nước ta, Nguyễn Vỹ ròng rã đêm hôm viết luôn hai cuốn sách chống quân Nhật (1940). Hai phát súng của ông bắn chính diện vào giặc Nhật vang lên lời tuyên cáo: Kẻ thù là Nhật Bản và Cái họa Nhật Bản. Thế là Nguyễn Vỹ bị giặc Nhật bắt đi đày ở Trà Khê (Phú Yên – 1942). Thậm chí ông còn bị giam vào hầm kín. Phải nói là ông liều chết bởi giặc Nhật rất tàn ác.

Bị cầm tù nhưng ông vẫn kiên cường với những dòng thơ chửi rủa: “Thằng tôi chờ chết nằm co ró / Làm thơ âm thầm lấy vần – Chó / Bỗng một con chó Nhật vừa đi qua / Đứng ngoài song sắt trố mắt ngó”. Nguyễn Vỹ luôn tự giễu nhại ngay chính cuộc đời mình và chấp nhận tai họa ập đến. Trong thời gian này ông luôn đọc sách và nghĩ đến sự cách tân thơ trong sự hy vọng đổi mới. Vì thế Nguyễn Vỹ từng viết những câu thơ 12 chữ để diễn tả tình cảm trước nỗi đau đất nước: “Đến ngày này non sông đã phủ mấy lớp sương mù / Mà còn rên dưới rễ có những vết hận lòng lai láng”.

Mãi đến khi Cách mạng tháng 8.1945 thành công, chân ướt chân ráo vừa ra tù, Nguyễn Vỹ vào Sài Gòn lập ngay tờ báo Tổ Quốc. Nhưng với cá tính gân bướng và ý chí quật khởi, qua giọng văn chửi vỗ mặt chế độ thực dân của Nguyễn Vỹ, tờ báo ngay sau đó bị sập tiệm (Rút giấy phép). Nhưng đất đâu có chịu giời, ý chí bạt mạng của Nguyễn Vỹ đã mách bảo về một hành trình mới. Ông lên Đà Lạt (1948) xin chính quyền ra mắt tờ báo Dân Chủ.

Được cấp giấy phép thế là ông lại vung bút phê phán chế độ Bảo hoàng. Tất nhiên ngọn bút ông bị bẻ gẫy vì tội xúc phạm “Vua” và tờ báo bị rút giấy phép. Không chấp nhận, Nguyễn Vỹ phẫn chí trở lại Sài Gòn mấy năm sau lập luôn tờ nhật báo Dân Ta (1952). Ngỡ như cái tên Dân Ta có vẻ khiêm nhường nhưng vẫn xuất hiện những bài báo với giọng văn mỉa mai thâm nho trong con mắt nhìn soi mói chế độ thực dân. Kéo dài được một năm, Dân Ta bị tạm đình bản (1953). Thời thế xã hội kéo dài mười năm với bao sự đổi thay. Không ngờ báo Dân Ta được phục hồi (1963). Nhưng cái tật ngông ngạo và bới rác xã hội tỉ mỉ của Nguyễn Vỹ làm chính quyền ngày càng tỏ ra khó chịu. Hai năm sau tờ báo bị cấm hẳn.

Nhưng thực ra trong những khoảng trống năm tháng chờ phục hồi tờ báo Nguyễn Vỹ đã cho ra đời những tập san như Phổ Thông (chuyên đề về văn hóa nghệ thuật) và hai tuần báo Thằng Bờm và Bông Lúa. Riêng tờ Thằng Bờm chuyên viết cho trẻ con nên được bạn đọc ủng hộ nhiệt liệt. Bởi lẽ tờ báo có tính giáo dục cao và khích lệ tâm hồn con trẻ sống trong tình thân ái và yêu đất nước quê hương.

Phải nói cuộc chơi đầy mạo hiểm của Nguyễn Vỹ với báo chí không hề vơi cạn niềm say mê. Ông có lý tưởng đấu tranh và yêu nước nồng nàn. Chấp nhận mọi rủi ro trong sự nghiệp văn chương báo chí. Đặc biệt với sự sắc sảo và cao ngạo của Nguyễn Vỹ, thực dân đã từng mua chuộc mời ông làm cố vấn nhưng không thành.

Ngay cả khi được chính quyền thực dân trao giải thưởng văn chương cho tập tiểu thuyết của Nguyễn Vỹ với mức tiền 6.000 đồng (rất lớn) nhưng ông cũng từ chối nhận. Cho dù khi đó làm báo rất vất vả, cuộc sống đầy khó khăn nhưng ông không hạ mình. Ông cho đó là miếng ăn nhục khi được chính quyền thực dân ban cho. Ông cần mẫn sống và sáng tác trong sự nghèo đói và trong sạch.

Cuộc chơi với con chữ tượng hình

Riêng với thơ, Nguyễn Vỹ luôn miệt mài đổi mới với sự khát khao cháy bỏng. Không ít người cho ông là sự ồn ào gây náo loạn trong thi đàn tiền chiến khi cho ra đời cuốn Tập thơ đầu (Premières Poésies) bằng hai thứ tiếng Pháp-Việt (1934). Hầu như ai cũng biết ông là một tú tài văn chương với trình độ tiếng Pháp thượng thừa. Ông rời Quảng Ngãi ra Hà Nội học và có thực tài văn chương. Ấy vậy mà sự vận dụng và làm mới lạ thi ca Nguyễn Vỹ lại gây ra nhiều tranh cãi. Thậm chí nhà thơ Thế Lữ với bút danh Lê Ta đã từng viết bài mạt sát thơ ông.

Đến cả Hoài Thanh – Hoài Chân cũng mỉa mai rằng: “Nguyễn Vỹ đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai…” chỉ bởi Nguyễn Vỹ hô hào: “Ta hãy truyền một thi hứng mới cho thế kỷ hai mươi/ Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiểm” (thể loại thơ 12 chữ một câu do Nguyễn Vỹ nghĩ ra).

Nhưng rồi thú vị thay chính hai ông Hoài Thanh – Hoài Chân cũng đã phải công nhận tài thơ Nguyễn Vỹ khi khẳng định sau đó: Gửi Trương Tửu – mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ”. Các ông cho rằng bài thơ Gửi Trương Tửu của Nguyễn Vỹ đã thể hiện đúng mình khi làm thơ trong lúc say rượu. Rung động và chân thực. Tình cảm trở về với truyền thống và đã quên đi những hình thức sắp xếp những câu chữ thơ thành hình ảnh chim, cò, mưa, sương… như một bức vẽ.

Cuộc đời thi ca của Nguyễn Vỹ gói gọn chỉ trong bốn tập thơ. Với thể loại văn và báo thì ông “lướt ga” tới hàng chục cuốn nhưng với thơ thì lại rụt rè hơn. Có lẽ bởi ông bị choáng váng ngay từ dư luận “đánh cho dập mặt” của ngôi sao đầu bảng thơ mới là Thế Lữ. Nên mãi đến 18 năm sau Nguyễn Vỹ mới cho ra mắt tập thơ thứ hai Hoang vu (1962).

Và tám năm kế tiếp tập thơ Buồn muốn khóc (1970) cùng tập thơ trào phúng Thơ lên ruột phát hành trước khi ông mất vì tai nạn giao thông tại Sài Gòn (1971). Tuy vậy thơ Nguyễn Vỹ lại tỏ rõ thái độ sống tiếp cận sớm với hiện thực và thể hiện đúng với phẩm chất công dân thi ca.

Cùng thời mở đầu cho phong trào thơ mới, hầu như ai cũng mượn gió trăng, mây mưa trầm mình vào tình yêu và sự cầu kỳ loang lổ trong khổ đau thì Nguyễn Vỹ đã tìm đến sự sống trần ai cần lao: “Tôi không muốn gánh kho vàng thơ mộng / Đem chợ đời đổi lấy món cân đai / Đừng nhử tôi ngựa, xe, tán, võng, lọng / Ai công hầu khanh tướng mặc ai”.

Với bài Gửi Trương Tửu ông làm sống động thi đàn vào thập niên 40 với những câu thơ nảy lửa: “Bây giờ thời thế vẫn thấy khó / Nhà văn An Nam khổ như chó / Mỗi lần cầm bút viết văn chương / Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương”. Một nhân cách Quảng Ngãi bùng nổ trong thơ ông: “Bao giờ chúng mình gạch một chữ / Làm cho đảo điên pho Lịch sử? / Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa / Hất mồ nhỏm dậy cười say sưa”.

Tuy trong cơn say, thái độ công dân trong thi ca Nguyễn Vỹ vẫn trỗi dậy: “Để xem hai chàng trai quắc thước / Quét sạch quân thù trên đất nước? / Để cho toàn thể dân Việt Nam / Đều được tự do muôn muôn năm”. Sự bừng thức về dân tộc trong thơ Nguyễn Vỹ trong dòng thi ca tiền chiến trở thành duy nhất. Thơ ông tiệm cận với văn chương cách mạng khá sớm.

Vỹ thanh

Nguyễn Vỹ là một tính cách khác biệt độc đáo. Trong làng báo ông thật sự táo bạo với văn phong hoạt náo cùng tài kể chuyện hấp dẫn. Ông in tới 25 cuốn sách cả văn lẫn thơ. Tài năng ông nổi bật trong bộ tự truyện Tuấn, chàng trai nước Việt (2 tập-1970) và cuốn Văn Thi sĩ Tiền chiến (1970).

Điều thú vị khi ông không ít dịp đối đáp với các văn sĩ luôn thể hiện sự hóm hỉnh và dồi dào năng lượng. Có lần nhà thơ Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: “Sao ông lại bảo Nhà văn An Nam khổ như chó? Ông so sánh nhà văn chúng ta với kiếp chó, mà ông không hổ thẹn à?”.

Ngay lập tức, cho dù bất ngờ, nhà thơ trẻ Nguyễn Vỹ trả lời: “Thưa cụ, nếu cháu so sánh nhà văn với chó, thì chó nó thẹn, chớ sao nhà văn lại thẹn?”. Ông Tản Đà làm thinh nốc hết ly rượu rồi rưng rưng nước mắt.

VƯƠNG TÂM

Báo An Ninh Thế Giới

Bài viết liên quan

Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm