TIN TỨC

Nhà thơ Trương Nam Hương - trong trẻo những miền xanh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-04 14:53:41
mail facebook google pos stwis
2801 lượt xem

ĐOÀN TUẤN

Đọng mãi trong tôi là hình ảnh Trương Nam Hương, tay cầm bản thảo, gí sát mắt (anh bị cận nặng), đi từ tầng 2 xuống, rủ tôi ra cái quán đêm gần nhà ăn trứng vịt lộn. Lúc đó đã gần 4 giờ sáng. Dạo đó, anh đang phụ trách biên tập Tạp chí Văn nghệ công an ở phía Nam. Thức đêm thế mà giọng vẫn trong.

Hai đứa lang thang ra chợ. Vừa đi, Hương vừa sôi nổi kể mấy chuyện vui về những người bạn thân chung như Lê Minh Quốc, Vũ Xuân Hương... Ngồi đến lúc thấy người thành phố nhộn nhịp đi lại trên đường cũng là lúc Hương chuẩn bị đến tòa soạn. Trong dáng hình hơi gầy của Hương, dường như chứa đựng sức mạnh vô hình.
 

Nhà thơ Trương Nam Hương.

Nhớ lần đầu tôi gặp Trương Nam Hương, lúc ấy anh đang rạng rỡ với ánh hào quang của tập thơ “Khúc hát người xa xứ” với giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, năm anh 28 tuổi. Ngày ấy, những giải thưởng còn được dư luận chú ý. Tôi ngỡ ngàng vì giọng thơ sâu đằm, mê đắm, trong trẻo của Hương. Anh tìm ra con đường của mình. Con đường này không mới nhưng anh vẫn tự tin bước vào và cất lên tiếng hát bằng nỗi buồn riêng. Một nỗi buồn chân thành khiến người đọc cảm động.

Ước mang một chút nắng về/ Thường khi cứ Tết là quê mưa dầm/ Mệt nhoài cơm áo quanh năm/ Hiếm hoi có một đêm nằm với quê/ Gối đầu sóng nước tôi nghe/ Sông côi cút tiếng hò khuya buồn buồn/ Mẹ theo hương khói lên nguồn/ Sau ta thăm thẳm cánh buồm lẻ loi/ Ruổi rong khắp bốn phương trời/ Câu thơ hành khất theo người hành hương/ Ta gom nhặt giữa đời thường/ Nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của cha...” (Trích “Câu thơ ngày về”).

Thời thơ ấu và tuổi trẻ của Trương Nam Hương là những ngày phiêu dạt. Quê cha ở Huế. Quê mẹ miền Kinh Bắc. Tuổi thơ ở Hà Nội. Hơn mười tuổi, Hương theo cha mẹ vào Nam. Định cư ở Biên Hòa. Rồi lại về thành phố Hồ Chí Minh. Con người như đám mây, trôi hết miền này đến miền khác. Nhưng, vẫn nhớ về miền thơ ấu của mình. Thơ của anh mang tâm trạng tâm hồn anh. Nó càng bất định, càng nhớ về một miền yên bình. Nhớ về nơi đó, nơi có ánh sáng cội nguồn: “Trăng thắp nến đợi ngày sông trở dạ/ Con chào đời cùng lúc với phù sa/ Con nhận nước sông Hồng là máu đỏ/ Cát ôm con từ hơi mẹ ấp òa/ Con mượn cỏ bờ đê làm chỏm tóc/ Mắc vành nôi lên dợn sóng la đà/ Khi bập bẹ âm đầu, con gọi mẹ/ Chạm mảng trời run biếc của bèo hoa”. (“Nhớ sông Mẹ”). Để từ ánh sáng đó, chiêm nghiệm về số phận con người.

Trương Nam Hương có lối sống quảng giao nên được nhiều người yêu quý. Nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi, như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Sơn Nam, Đoàn Minh Tuấn, Mai Văn Tạo, Trần Mạnh Hảo... thường ghé tòa soạn Tạp chí Văn nghệ công an chuyện trò, trao đổi công việc với anh. Anh quý đồng nghiệp và hết lòng với bạn bè. Nhớ lần nhà báo Đinh Trọng Tuấn và tôi vào thành phố Hồ Chí Minh tìm nhà in cho Tạp chí Thế giới điện ảnh phát hành ở phía Nam, Trương Nam Hương là người rất nhiệt tình. Anh mua giúp chúng tôi từ bộ ấm chén pha trà. Biết anh Đinh Trọng Tuấn là người nghiện thuốc lào, Hương kiếm bằng được cái điếu cày, mang đến tòa soạn giữa cơn mưa, người ướt sũng với nụ cười thật tươi.

Các nhà thơ Lê Minh Quốc, Vũ Xuân Hương, Đoàn Tuấn và Trương Nam Hương.

Trương Nam Hương có tình bạn, tình thơ lâu bền với Lê Minh Quốc. Hai nhà thơ này có chung “điểm xuất phát” - cả hai cùng học chung một lớp ở Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, cùng được chọn là 2 trong số 60 sinh viên tiêu biểu nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường (1957-2017). Có một chi tiết độc đáo về thời sinh viên của hai anh chàng này. Đó là ngày thi ra trường, cả hai toát mồ hôi hột vì biết khó có thể vượt qua môn tiếng Nga. Môn này, cả hai lờ mờ chỉ biết chữ đực chữ cái. Cuối cùng, họ bàn với nhau là khi thi vấn đáp, thay vì trả lời vào câu hỏi của cô giáo thì chỉ còn cách này... Cách gì? Họ đọc luôn bản dịch thơ Puskin mà mỗi người đã dịch ra thể thơ lục bát - sau khi đã nắm, đã hiểu nghĩa của bài thơ. Thật bất ngờ, sự “phá cách” này đã được cán bộ giảng dạy là cô Thu Dung cho điểm cao nhất. Chuyện có thật này đã trở thành “giai thoại” trong Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh từ ngày đó.

Ngoài thơ, Lê Minh Quốc còn viết sách khảo cứu lịch sử, địa phương chí... Đặc biệt, Quốc còn là một người say đắm đến tận cùng tiếng Việt. Anh nâng niu, tìm về ngọn nguồn từng chữ, từng câu, từng cách nói. Biết được nỗi đắm say của bạn thơ, nhất là từ khi cơn sốt truyền thông dội lên bao lớp sóng giới thiệu 3 tập sách “Văn hóa Việt nhìn từ tiếng Việt”, Trương Nam Hương đã viết bài thơ tặng Lê Minh Quốc: “Như suối nguồn trong vắt/ Tiếng chim trời đa âm/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Bốn nghìn năm bổng trầm/ Tiếng mặn mòi vị biển/ Tiếng ngọt lành hương sông/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Thảo thơm như lúa đồng!/ Tiếng vững bền như núi/ Dọc thời gian đắp bồi/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Lớn lên như cánh nôi/ Thanh âm hình chữ S/ Từ ngàn xưa ông bà/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Nuôi nhau bằng dân ca!”.

Nhìn đôi bạn thơ Hương - Quốc sau gần bốn mươi năm qua, tóc giờ đốm bạc, tôi lại nhớ một bài thơ nữa của Hương tặng Quốc đầy linh cảm về thời gian, anh viết từ những năm 90: “Bạn bè thương khó bên nhau/ Nỗi đau của bạn thành đau của mình/ Chiếu đây, ta trải thâm tình/ Rượu đây, hai cốc thủy tinh rót tràn...”. Bạn ngồi tóc bạc lan man/ Ới a ta hát giữa ngàn nhớ quên (“Thơ tặng bạn thơ”).

Một người bạn thơ nữa mà Trương Nam Hương tận tình quan tâm, đó là nhà thơ Vũ Xuân Hương. Trương Nam Hương ân tình với Vũ Xuân Hương như một người em với một người anh. Trương Nam Hương tìm nhiều cách để giới thiệu Vũ Xuân Hương, đưa thơ Vũ Xuân Hương đến với công chúng. Tập thơ “Sông trưa” của Vũ Xuân Hương xuất bản vào những năm 90 có công sức rất nhiều của Trương Nam Hương và những người bạn. Khi Vũ Xuân Hương sang Nga học, giữa thời khủng hoảng, Trương Nam Hương cảm nhận bạn mình sẽ gặp nhiều khó khăn. Anh viết bài “Gửi rừng Nga” để tặng Vũ Xuân Hương: “Những câu thơ không nhà/ Cô đơn chờ bạc tóc/ Thương một chiều rừng Nga/ Bạn ta ngồi lặng khóc/ Bạn ngồi như tiền kiếp/ Thi ca quên chải đầu /Giữa rừng phong trắng tuyết/ Độc thoại từng nỗi đau/ Đàn sếu trôi về đâu/ Mới hay mình lưu lạc/ Chao, thương quá cánh cò/ Rét run dòng lục bát/ Thơ Puskin từng hát/ Tự do cho tình yêu/ Dịch làm sao hạnh phúc/ Hoàng hôn hay máu chiều?...’’.

Những năm trước, việc đi lại giữa hai miền bằng đường hàng không còn khó khăn, Trương Nam Hương thường gửi quà cho bà ngoại và người dì ở phố Chùa Bộc (Hà Nội), nhờ tôi mang đến. Bà ngoại Hương đã gần 90 tuổi. Bà thường gọi Hương bằng tên gọi ở nhà của anh: ” Thằng Ân có khỏe không cháu? Vợ con nó thế nào? Bé Bi, bé Bo lớn chưa? Có ngoan không?’’ v.v... Có lẽ bà ở trong nhà quá lâu nên mỗi khi tôi về, bà lại căn dặn: “Cẩn thận đấy cháu. Giờ ông ba bị và mẹ mìn nhiều lắm! Họ bắt đấy!”. Trong thơ Trương Nam Hương thường có bóng hình những chân trời xa xanh. Đó là những ký ức về tuổi thơ đẹp và buồn, về những miền quê bình yên thẳm xanh trong tâm thức. “Củ khoai gầy trơ ngón mút/ Tuổi thơ mót gió trên đồng/ Giấc mơ vun vùi trấu bếp/ Tha hồ hoa gạo mà đong” (“Hoa gạo”).

Anh viết về bà với nhiều chi tiết và hình ảnh thơ thật đẹp: “Nắng trong mắt những ngày thơ bé/ Cũng xanh mơn như thể lá trầu/ Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/ Chở sớm chiều tóm tém/ Hoàng hôn đọng trên môi bà quạch thẫm/ Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài/ Bóng bà đổ xuống đất đai/ Rủ châu chấu cào cào về cháu bắt/ Rủ rau má rau sam/ Vào bát canh ngọt mát/ Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình/ Bà tựa lưng vào nguồn cội lặng thinh/ Gầy như khói trên trang thờ Tiên tổ/ Da mặt ngoại như vỏ cây tróc lở/ Mắt nheo nhìn tươi mưởi những chồi non/ Tôi là mầm lá lon ton/ Nảy trong lòng mẹ vuông tròn bà mang/ Run trên gốc rễ cũ càng/ Tôi trong dáng ngoại, bóng làng chở che... Tôi như thể chú mèo dim dím mắt/ Trong lòng bà tro trấu thật bình yên/ Mây ngơ ngóng dưới vòm trời cổ tích/ Dưới vòm trời tóc ngoại - một bà tiên...” (“Thời nắng xanh”).

Một hôm, Hương gửi tôi bài thơ nhan đề “Cà phê ban mai”. Tôi không thích cà phê bằng trà. Với lại có quá nhiều bài thơ viết về chủ đề cà phê. Bài nào cũng giống nhau về tâm trạng buồn, cô đơn. Ít ngày sau tôi mới đọc. Bỗng giật mình. Bài thơ không viết về cà phê mà viết về một cảm xúc đặc biệt, rất đáng trân trọng.

Buổi sáng tiếng con reo trong nắng nõn/ Nắng ngọt ngào thời ba hai mươi /Cà phê nhé ba, có cả bạn trai con nữa/ Gió theo ba mát rượi đến nơi mời/ Ba gặp mẹ trong con ngày rất trẻ/ Hoa cúc ơi, hoa cúc dịu dàng/ Tay con khuấy hương cà phê ngát nhẹ/ Ba lặng ngồi nghe ký ức ngân vang/ Ba mươi năm sau/ Lại có một chàng trai mang lòng ba sớm ấy/ Đặt những câu thơ lên môi/ Đặt cả đất trời lên ngực/ Hoa cúc ơi, hoa cúc thật vàng/ Khi mắt lá xanh đằm mắt lá/ Nắng khẽ dìu cho những ngón tay đan/ Những giọt ban mai hẹn hò trong đáy cốc/ Ba chứng nhân hai ánh mắt thiên thần!”.

Bài thơ này thật khó viết. Nhưng, Trương Nam Hương đã thể hiện rất thành công. Bởi anh luôn sống bằng trái tim nhân hậu, tinh thần lạc quan, sẻ chia tình cảm, một niềm tin vào cuộc đời rộng mở.

Hương lúc nào cũng tha thiết và đau đáu với thơ. Nhiều năm nay đã có thói quen mỗi sáng dậy thật sớm, lên sân thượng tưới giàn hoa lan và vườn cây kiểng. Mọi việc đâu vào đó, cũng là lúc anh thư thả một mình với ly trà thật ngon, quyển sổ cùng cây bút trên tay để ghi những cảm xúc thơ tươi ròng chợt đến. Nhiều bài thơ trong tập Thời nắng xanh và những bài thơ khác đã ra đời trong hoàn cảnh này. Nếu chú ý, ta sẽ thấy ở đó có nhiều bài thơ tứ tuyệt chắt lọc từng chữ, từng câu chỉn chu, nhất là những bài thơ viết về danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu... Anh tâm tình: “Một bài thơ viết xong, có lúc cũng câu đó nhưng mình đưa ra nhiều “phương án” khác nhau, để cuối cùng chọn lấy câu, chữ nào đắc ý nhất”. Qua đó, chúng ta thêm hiểu nỗi nhọc nhằn của lao động nghệ thuật thơ là vậy.

Trải qua thời gian cùng những biến thiên đời sống, anh vẫn giữ tâm hồn thơ mê đắm, tài hoa như thuở ban đầu. Anh cũng luôn giữ tâm thế nhẹ nhàng, không màng danh lợi phù du. Vì tất cả những thứ đó là vật ngoại thân. Không cần thiết. “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian/ Chẳng quen khoanh dạ mặt bàn/ Về thưa ghế đẩu cơ hàn mẹ cho!” (“Dặn lòng”).

Nguồn: https://cand.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm