TIN TỨC

Nhà thơ Trương Nam Hương - trong trẻo những miền xanh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-04 14:53:41
mail facebook google pos stwis
4118 lượt xem

ĐOÀN TUẤN

Đọng mãi trong tôi là hình ảnh Trương Nam Hương, tay cầm bản thảo, gí sát mắt (anh bị cận nặng), đi từ tầng 2 xuống, rủ tôi ra cái quán đêm gần nhà ăn trứng vịt lộn. Lúc đó đã gần 4 giờ sáng. Dạo đó, anh đang phụ trách biên tập Tạp chí Văn nghệ công an ở phía Nam. Thức đêm thế mà giọng vẫn trong.

Hai đứa lang thang ra chợ. Vừa đi, Hương vừa sôi nổi kể mấy chuyện vui về những người bạn thân chung như Lê Minh Quốc, Vũ Xuân Hương... Ngồi đến lúc thấy người thành phố nhộn nhịp đi lại trên đường cũng là lúc Hương chuẩn bị đến tòa soạn. Trong dáng hình hơi gầy của Hương, dường như chứa đựng sức mạnh vô hình.
 

Nhà thơ Trương Nam Hương.

Nhớ lần đầu tôi gặp Trương Nam Hương, lúc ấy anh đang rạng rỡ với ánh hào quang của tập thơ “Khúc hát người xa xứ” với giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, năm anh 28 tuổi. Ngày ấy, những giải thưởng còn được dư luận chú ý. Tôi ngỡ ngàng vì giọng thơ sâu đằm, mê đắm, trong trẻo của Hương. Anh tìm ra con đường của mình. Con đường này không mới nhưng anh vẫn tự tin bước vào và cất lên tiếng hát bằng nỗi buồn riêng. Một nỗi buồn chân thành khiến người đọc cảm động.

Ước mang một chút nắng về/ Thường khi cứ Tết là quê mưa dầm/ Mệt nhoài cơm áo quanh năm/ Hiếm hoi có một đêm nằm với quê/ Gối đầu sóng nước tôi nghe/ Sông côi cút tiếng hò khuya buồn buồn/ Mẹ theo hương khói lên nguồn/ Sau ta thăm thẳm cánh buồm lẻ loi/ Ruổi rong khắp bốn phương trời/ Câu thơ hành khất theo người hành hương/ Ta gom nhặt giữa đời thường/ Nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của cha...” (Trích “Câu thơ ngày về”).

Thời thơ ấu và tuổi trẻ của Trương Nam Hương là những ngày phiêu dạt. Quê cha ở Huế. Quê mẹ miền Kinh Bắc. Tuổi thơ ở Hà Nội. Hơn mười tuổi, Hương theo cha mẹ vào Nam. Định cư ở Biên Hòa. Rồi lại về thành phố Hồ Chí Minh. Con người như đám mây, trôi hết miền này đến miền khác. Nhưng, vẫn nhớ về miền thơ ấu của mình. Thơ của anh mang tâm trạng tâm hồn anh. Nó càng bất định, càng nhớ về một miền yên bình. Nhớ về nơi đó, nơi có ánh sáng cội nguồn: “Trăng thắp nến đợi ngày sông trở dạ/ Con chào đời cùng lúc với phù sa/ Con nhận nước sông Hồng là máu đỏ/ Cát ôm con từ hơi mẹ ấp òa/ Con mượn cỏ bờ đê làm chỏm tóc/ Mắc vành nôi lên dợn sóng la đà/ Khi bập bẹ âm đầu, con gọi mẹ/ Chạm mảng trời run biếc của bèo hoa”. (“Nhớ sông Mẹ”). Để từ ánh sáng đó, chiêm nghiệm về số phận con người.

Trương Nam Hương có lối sống quảng giao nên được nhiều người yêu quý. Nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi, như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Sơn Nam, Đoàn Minh Tuấn, Mai Văn Tạo, Trần Mạnh Hảo... thường ghé tòa soạn Tạp chí Văn nghệ công an chuyện trò, trao đổi công việc với anh. Anh quý đồng nghiệp và hết lòng với bạn bè. Nhớ lần nhà báo Đinh Trọng Tuấn và tôi vào thành phố Hồ Chí Minh tìm nhà in cho Tạp chí Thế giới điện ảnh phát hành ở phía Nam, Trương Nam Hương là người rất nhiệt tình. Anh mua giúp chúng tôi từ bộ ấm chén pha trà. Biết anh Đinh Trọng Tuấn là người nghiện thuốc lào, Hương kiếm bằng được cái điếu cày, mang đến tòa soạn giữa cơn mưa, người ướt sũng với nụ cười thật tươi.

Các nhà thơ Lê Minh Quốc, Vũ Xuân Hương, Đoàn Tuấn và Trương Nam Hương.

Trương Nam Hương có tình bạn, tình thơ lâu bền với Lê Minh Quốc. Hai nhà thơ này có chung “điểm xuất phát” - cả hai cùng học chung một lớp ở Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, cùng được chọn là 2 trong số 60 sinh viên tiêu biểu nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường (1957-2017). Có một chi tiết độc đáo về thời sinh viên của hai anh chàng này. Đó là ngày thi ra trường, cả hai toát mồ hôi hột vì biết khó có thể vượt qua môn tiếng Nga. Môn này, cả hai lờ mờ chỉ biết chữ đực chữ cái. Cuối cùng, họ bàn với nhau là khi thi vấn đáp, thay vì trả lời vào câu hỏi của cô giáo thì chỉ còn cách này... Cách gì? Họ đọc luôn bản dịch thơ Puskin mà mỗi người đã dịch ra thể thơ lục bát - sau khi đã nắm, đã hiểu nghĩa của bài thơ. Thật bất ngờ, sự “phá cách” này đã được cán bộ giảng dạy là cô Thu Dung cho điểm cao nhất. Chuyện có thật này đã trở thành “giai thoại” trong Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh từ ngày đó.

Ngoài thơ, Lê Minh Quốc còn viết sách khảo cứu lịch sử, địa phương chí... Đặc biệt, Quốc còn là một người say đắm đến tận cùng tiếng Việt. Anh nâng niu, tìm về ngọn nguồn từng chữ, từng câu, từng cách nói. Biết được nỗi đắm say của bạn thơ, nhất là từ khi cơn sốt truyền thông dội lên bao lớp sóng giới thiệu 3 tập sách “Văn hóa Việt nhìn từ tiếng Việt”, Trương Nam Hương đã viết bài thơ tặng Lê Minh Quốc: “Như suối nguồn trong vắt/ Tiếng chim trời đa âm/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Bốn nghìn năm bổng trầm/ Tiếng mặn mòi vị biển/ Tiếng ngọt lành hương sông/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Thảo thơm như lúa đồng!/ Tiếng vững bền như núi/ Dọc thời gian đắp bồi/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Lớn lên như cánh nôi/ Thanh âm hình chữ S/ Từ ngàn xưa ông bà/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Nuôi nhau bằng dân ca!”.

Nhìn đôi bạn thơ Hương - Quốc sau gần bốn mươi năm qua, tóc giờ đốm bạc, tôi lại nhớ một bài thơ nữa của Hương tặng Quốc đầy linh cảm về thời gian, anh viết từ những năm 90: “Bạn bè thương khó bên nhau/ Nỗi đau của bạn thành đau của mình/ Chiếu đây, ta trải thâm tình/ Rượu đây, hai cốc thủy tinh rót tràn...”. Bạn ngồi tóc bạc lan man/ Ới a ta hát giữa ngàn nhớ quên (“Thơ tặng bạn thơ”).

Một người bạn thơ nữa mà Trương Nam Hương tận tình quan tâm, đó là nhà thơ Vũ Xuân Hương. Trương Nam Hương ân tình với Vũ Xuân Hương như một người em với một người anh. Trương Nam Hương tìm nhiều cách để giới thiệu Vũ Xuân Hương, đưa thơ Vũ Xuân Hương đến với công chúng. Tập thơ “Sông trưa” của Vũ Xuân Hương xuất bản vào những năm 90 có công sức rất nhiều của Trương Nam Hương và những người bạn. Khi Vũ Xuân Hương sang Nga học, giữa thời khủng hoảng, Trương Nam Hương cảm nhận bạn mình sẽ gặp nhiều khó khăn. Anh viết bài “Gửi rừng Nga” để tặng Vũ Xuân Hương: “Những câu thơ không nhà/ Cô đơn chờ bạc tóc/ Thương một chiều rừng Nga/ Bạn ta ngồi lặng khóc/ Bạn ngồi như tiền kiếp/ Thi ca quên chải đầu /Giữa rừng phong trắng tuyết/ Độc thoại từng nỗi đau/ Đàn sếu trôi về đâu/ Mới hay mình lưu lạc/ Chao, thương quá cánh cò/ Rét run dòng lục bát/ Thơ Puskin từng hát/ Tự do cho tình yêu/ Dịch làm sao hạnh phúc/ Hoàng hôn hay máu chiều?...’’.

Những năm trước, việc đi lại giữa hai miền bằng đường hàng không còn khó khăn, Trương Nam Hương thường gửi quà cho bà ngoại và người dì ở phố Chùa Bộc (Hà Nội), nhờ tôi mang đến. Bà ngoại Hương đã gần 90 tuổi. Bà thường gọi Hương bằng tên gọi ở nhà của anh: ” Thằng Ân có khỏe không cháu? Vợ con nó thế nào? Bé Bi, bé Bo lớn chưa? Có ngoan không?’’ v.v... Có lẽ bà ở trong nhà quá lâu nên mỗi khi tôi về, bà lại căn dặn: “Cẩn thận đấy cháu. Giờ ông ba bị và mẹ mìn nhiều lắm! Họ bắt đấy!”. Trong thơ Trương Nam Hương thường có bóng hình những chân trời xa xanh. Đó là những ký ức về tuổi thơ đẹp và buồn, về những miền quê bình yên thẳm xanh trong tâm thức. “Củ khoai gầy trơ ngón mút/ Tuổi thơ mót gió trên đồng/ Giấc mơ vun vùi trấu bếp/ Tha hồ hoa gạo mà đong” (“Hoa gạo”).

Anh viết về bà với nhiều chi tiết và hình ảnh thơ thật đẹp: “Nắng trong mắt những ngày thơ bé/ Cũng xanh mơn như thể lá trầu/ Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/ Chở sớm chiều tóm tém/ Hoàng hôn đọng trên môi bà quạch thẫm/ Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài/ Bóng bà đổ xuống đất đai/ Rủ châu chấu cào cào về cháu bắt/ Rủ rau má rau sam/ Vào bát canh ngọt mát/ Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình/ Bà tựa lưng vào nguồn cội lặng thinh/ Gầy như khói trên trang thờ Tiên tổ/ Da mặt ngoại như vỏ cây tróc lở/ Mắt nheo nhìn tươi mưởi những chồi non/ Tôi là mầm lá lon ton/ Nảy trong lòng mẹ vuông tròn bà mang/ Run trên gốc rễ cũ càng/ Tôi trong dáng ngoại, bóng làng chở che... Tôi như thể chú mèo dim dím mắt/ Trong lòng bà tro trấu thật bình yên/ Mây ngơ ngóng dưới vòm trời cổ tích/ Dưới vòm trời tóc ngoại - một bà tiên...” (“Thời nắng xanh”).

Một hôm, Hương gửi tôi bài thơ nhan đề “Cà phê ban mai”. Tôi không thích cà phê bằng trà. Với lại có quá nhiều bài thơ viết về chủ đề cà phê. Bài nào cũng giống nhau về tâm trạng buồn, cô đơn. Ít ngày sau tôi mới đọc. Bỗng giật mình. Bài thơ không viết về cà phê mà viết về một cảm xúc đặc biệt, rất đáng trân trọng.

Buổi sáng tiếng con reo trong nắng nõn/ Nắng ngọt ngào thời ba hai mươi /Cà phê nhé ba, có cả bạn trai con nữa/ Gió theo ba mát rượi đến nơi mời/ Ba gặp mẹ trong con ngày rất trẻ/ Hoa cúc ơi, hoa cúc dịu dàng/ Tay con khuấy hương cà phê ngát nhẹ/ Ba lặng ngồi nghe ký ức ngân vang/ Ba mươi năm sau/ Lại có một chàng trai mang lòng ba sớm ấy/ Đặt những câu thơ lên môi/ Đặt cả đất trời lên ngực/ Hoa cúc ơi, hoa cúc thật vàng/ Khi mắt lá xanh đằm mắt lá/ Nắng khẽ dìu cho những ngón tay đan/ Những giọt ban mai hẹn hò trong đáy cốc/ Ba chứng nhân hai ánh mắt thiên thần!”.

Bài thơ này thật khó viết. Nhưng, Trương Nam Hương đã thể hiện rất thành công. Bởi anh luôn sống bằng trái tim nhân hậu, tinh thần lạc quan, sẻ chia tình cảm, một niềm tin vào cuộc đời rộng mở.

Hương lúc nào cũng tha thiết và đau đáu với thơ. Nhiều năm nay đã có thói quen mỗi sáng dậy thật sớm, lên sân thượng tưới giàn hoa lan và vườn cây kiểng. Mọi việc đâu vào đó, cũng là lúc anh thư thả một mình với ly trà thật ngon, quyển sổ cùng cây bút trên tay để ghi những cảm xúc thơ tươi ròng chợt đến. Nhiều bài thơ trong tập Thời nắng xanh và những bài thơ khác đã ra đời trong hoàn cảnh này. Nếu chú ý, ta sẽ thấy ở đó có nhiều bài thơ tứ tuyệt chắt lọc từng chữ, từng câu chỉn chu, nhất là những bài thơ viết về danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu... Anh tâm tình: “Một bài thơ viết xong, có lúc cũng câu đó nhưng mình đưa ra nhiều “phương án” khác nhau, để cuối cùng chọn lấy câu, chữ nào đắc ý nhất”. Qua đó, chúng ta thêm hiểu nỗi nhọc nhằn của lao động nghệ thuật thơ là vậy.

Trải qua thời gian cùng những biến thiên đời sống, anh vẫn giữ tâm hồn thơ mê đắm, tài hoa như thuở ban đầu. Anh cũng luôn giữ tâm thế nhẹ nhàng, không màng danh lợi phù du. Vì tất cả những thứ đó là vật ngoại thân. Không cần thiết. “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian/ Chẳng quen khoanh dạ mặt bàn/ Về thưa ghế đẩu cơ hàn mẹ cho!” (“Dặn lòng”).

Nguồn: https://cand.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm