TIN TỨC

Nhà thơ Trương Nam Hương - trong trẻo những miền xanh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-04 15:06:03
mail facebook google pos stwis
851 lượt xem

ĐOÀN TUẤN

Đọng mãi trong tôi là hình ảnh Trương Nam Hương, tay cầm bản thảo, gí sát mắt (anh bị cận nặng), đi từ tầng 2 xuống, rủ tôi ra cái quán đêm gần nhà ăn trứng vịt lộn. Lúc đó đã gần 4 giờ sáng. Dạo đó, anh đang phụ trách biên tập Tạp chí Văn nghệ công an ở phía Nam. Thức đêm thế mà giọng vẫn trong.

Hai đứa lang thang ra chợ. Vừa đi, Hương vừa sôi nổi kể mấy chuyện vui về những người bạn thân chung như Lê Minh Quốc, Vũ Xuân Hương... Ngồi đến lúc thấy người thành phố nhộn nhịp đi lại trên đường cũng là lúc Hương chuẩn bị đến tòa soạn. Trong dáng hình hơi gầy của Hương, dường như chứa đựng sức mạnh vô hình.
 

Nhà thơ Trương Nam Hương.

Nhớ lần đầu tôi gặp Trương Nam Hương, lúc ấy anh đang rạng rỡ với ánh hào quang của tập thơ “Khúc hát người xa xứ” với giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, năm anh 28 tuổi. Ngày ấy, những giải thưởng còn được dư luận chú ý. Tôi ngỡ ngàng vì giọng thơ sâu đằm, mê đắm, trong trẻo của Hương. Anh tìm ra con đường của mình. Con đường này không mới nhưng anh vẫn tự tin bước vào và cất lên tiếng hát bằng nỗi buồn riêng. Một nỗi buồn chân thành khiến người đọc cảm động.

Ước mang một chút nắng về/ Thường khi cứ Tết là quê mưa dầm/ Mệt nhoài cơm áo quanh năm/ Hiếm hoi có một đêm nằm với quê/ Gối đầu sóng nước tôi nghe/ Sông côi cút tiếng hò khuya buồn buồn/ Mẹ theo hương khói lên nguồn/ Sau ta thăm thẳm cánh buồm lẻ loi/ Ruổi rong khắp bốn phương trời/ Câu thơ hành khất theo người hành hương/ Ta gom nhặt giữa đời thường/ Nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của cha...” (Trích “Câu thơ ngày về”).

Thời thơ ấu và tuổi trẻ của Trương Nam Hương là những ngày phiêu dạt. Quê cha ở Huế. Quê mẹ miền Kinh Bắc. Tuổi thơ ở Hà Nội. Hơn mười tuổi, Hương theo cha mẹ vào Nam. Định cư ở Biên Hòa. Rồi lại về thành phố Hồ Chí Minh. Con người như đám mây, trôi hết miền này đến miền khác. Nhưng, vẫn nhớ về miền thơ ấu của mình. Thơ của anh mang tâm trạng tâm hồn anh. Nó càng bất định, càng nhớ về một miền yên bình. Nhớ về nơi đó, nơi có ánh sáng cội nguồn: “Trăng thắp nến đợi ngày sông trở dạ/ Con chào đời cùng lúc với phù sa/ Con nhận nước sông Hồng là máu đỏ/ Cát ôm con từ hơi mẹ ấp òa/ Con mượn cỏ bờ đê làm chỏm tóc/ Mắc vành nôi lên dợn sóng la đà/ Khi bập bẹ âm đầu, con gọi mẹ/ Chạm mảng trời run biếc của bèo hoa”. (“Nhớ sông Mẹ”). Để từ ánh sáng đó, chiêm nghiệm về số phận con người.

Trương Nam Hương có lối sống quảng giao nên được nhiều người yêu quý. Nhiều nhà văn, nhà thơ tên tuổi, như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Sơn Nam, Đoàn Minh Tuấn, Mai Văn Tạo, Trần Mạnh Hảo... thường ghé tòa soạn Tạp chí Văn nghệ công an chuyện trò, trao đổi công việc với anh. Anh quý đồng nghiệp và hết lòng với bạn bè. Nhớ lần nhà báo Đinh Trọng Tuấn và tôi vào thành phố Hồ Chí Minh tìm nhà in cho Tạp chí Thế giới điện ảnh phát hành ở phía Nam, Trương Nam Hương là người rất nhiệt tình. Anh mua giúp chúng tôi từ bộ ấm chén pha trà. Biết anh Đinh Trọng Tuấn là người nghiện thuốc lào, Hương kiếm bằng được cái điếu cày, mang đến tòa soạn giữa cơn mưa, người ướt sũng với nụ cười thật tươi.

Các nhà thơ Lê Minh Quốc, Vũ Xuân Hương, Đoàn Tuấn và Trương Nam Hương.

Trương Nam Hương có tình bạn, tình thơ lâu bền với Lê Minh Quốc. Hai nhà thơ này có chung “điểm xuất phát” - cả hai cùng học chung một lớp ở Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, cùng được chọn là 2 trong số 60 sinh viên tiêu biểu nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường (1957-2017). Có một chi tiết độc đáo về thời sinh viên của hai anh chàng này. Đó là ngày thi ra trường, cả hai toát mồ hôi hột vì biết khó có thể vượt qua môn tiếng Nga. Môn này, cả hai lờ mờ chỉ biết chữ đực chữ cái. Cuối cùng, họ bàn với nhau là khi thi vấn đáp, thay vì trả lời vào câu hỏi của cô giáo thì chỉ còn cách này... Cách gì? Họ đọc luôn bản dịch thơ Puskin mà mỗi người đã dịch ra thể thơ lục bát - sau khi đã nắm, đã hiểu nghĩa của bài thơ. Thật bất ngờ, sự “phá cách” này đã được cán bộ giảng dạy là cô Thu Dung cho điểm cao nhất. Chuyện có thật này đã trở thành “giai thoại” trong Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh từ ngày đó.

Ngoài thơ, Lê Minh Quốc còn viết sách khảo cứu lịch sử, địa phương chí... Đặc biệt, Quốc còn là một người say đắm đến tận cùng tiếng Việt. Anh nâng niu, tìm về ngọn nguồn từng chữ, từng câu, từng cách nói. Biết được nỗi đắm say của bạn thơ, nhất là từ khi cơn sốt truyền thông dội lên bao lớp sóng giới thiệu 3 tập sách “Văn hóa Việt nhìn từ tiếng Việt”, Trương Nam Hương đã viết bài thơ tặng Lê Minh Quốc: “Như suối nguồn trong vắt/ Tiếng chim trời đa âm/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Bốn nghìn năm bổng trầm/ Tiếng mặn mòi vị biển/ Tiếng ngọt lành hương sông/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Thảo thơm như lúa đồng!/ Tiếng vững bền như núi/ Dọc thời gian đắp bồi/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Lớn lên như cánh nôi/ Thanh âm hình chữ S/ Từ ngàn xưa ông bà/ Tiếng Việt ơi, tiếng Việt/ Nuôi nhau bằng dân ca!”.

Nhìn đôi bạn thơ Hương - Quốc sau gần bốn mươi năm qua, tóc giờ đốm bạc, tôi lại nhớ một bài thơ nữa của Hương tặng Quốc đầy linh cảm về thời gian, anh viết từ những năm 90: “Bạn bè thương khó bên nhau/ Nỗi đau của bạn thành đau của mình/ Chiếu đây, ta trải thâm tình/ Rượu đây, hai cốc thủy tinh rót tràn...”. Bạn ngồi tóc bạc lan man/ Ới a ta hát giữa ngàn nhớ quên (“Thơ tặng bạn thơ”).

Một người bạn thơ nữa mà Trương Nam Hương tận tình quan tâm, đó là nhà thơ Vũ Xuân Hương. Trương Nam Hương ân tình với Vũ Xuân Hương như một người em với một người anh. Trương Nam Hương tìm nhiều cách để giới thiệu Vũ Xuân Hương, đưa thơ Vũ Xuân Hương đến với công chúng. Tập thơ “Sông trưa” của Vũ Xuân Hương xuất bản vào những năm 90 có công sức rất nhiều của Trương Nam Hương và những người bạn. Khi Vũ Xuân Hương sang Nga học, giữa thời khủng hoảng, Trương Nam Hương cảm nhận bạn mình sẽ gặp nhiều khó khăn. Anh viết bài “Gửi rừng Nga” để tặng Vũ Xuân Hương: “Những câu thơ không nhà/ Cô đơn chờ bạc tóc/ Thương một chiều rừng Nga/ Bạn ta ngồi lặng khóc/ Bạn ngồi như tiền kiếp/ Thi ca quên chải đầu /Giữa rừng phong trắng tuyết/ Độc thoại từng nỗi đau/ Đàn sếu trôi về đâu/ Mới hay mình lưu lạc/ Chao, thương quá cánh cò/ Rét run dòng lục bát/ Thơ Puskin từng hát/ Tự do cho tình yêu/ Dịch làm sao hạnh phúc/ Hoàng hôn hay máu chiều?...’’.

Những năm trước, việc đi lại giữa hai miền bằng đường hàng không còn khó khăn, Trương Nam Hương thường gửi quà cho bà ngoại và người dì ở phố Chùa Bộc (Hà Nội), nhờ tôi mang đến. Bà ngoại Hương đã gần 90 tuổi. Bà thường gọi Hương bằng tên gọi ở nhà của anh: ” Thằng Ân có khỏe không cháu? Vợ con nó thế nào? Bé Bi, bé Bo lớn chưa? Có ngoan không?’’ v.v... Có lẽ bà ở trong nhà quá lâu nên mỗi khi tôi về, bà lại căn dặn: “Cẩn thận đấy cháu. Giờ ông ba bị và mẹ mìn nhiều lắm! Họ bắt đấy!”. Trong thơ Trương Nam Hương thường có bóng hình những chân trời xa xanh. Đó là những ký ức về tuổi thơ đẹp và buồn, về những miền quê bình yên thẳm xanh trong tâm thức. “Củ khoai gầy trơ ngón mút/ Tuổi thơ mót gió trên đồng/ Giấc mơ vun vùi trấu bếp/ Tha hồ hoa gạo mà đong” (“Hoa gạo”).

Anh viết về bà với nhiều chi tiết và hình ảnh thơ thật đẹp: “Nắng trong mắt những ngày thơ bé/ Cũng xanh mơn như thể lá trầu/ Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/ Chở sớm chiều tóm tém/ Hoàng hôn đọng trên môi bà quạch thẫm/ Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài/ Bóng bà đổ xuống đất đai/ Rủ châu chấu cào cào về cháu bắt/ Rủ rau má rau sam/ Vào bát canh ngọt mát/ Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình/ Bà tựa lưng vào nguồn cội lặng thinh/ Gầy như khói trên trang thờ Tiên tổ/ Da mặt ngoại như vỏ cây tróc lở/ Mắt nheo nhìn tươi mưởi những chồi non/ Tôi là mầm lá lon ton/ Nảy trong lòng mẹ vuông tròn bà mang/ Run trên gốc rễ cũ càng/ Tôi trong dáng ngoại, bóng làng chở che... Tôi như thể chú mèo dim dím mắt/ Trong lòng bà tro trấu thật bình yên/ Mây ngơ ngóng dưới vòm trời cổ tích/ Dưới vòm trời tóc ngoại - một bà tiên...” (“Thời nắng xanh”).

Một hôm, Hương gửi tôi bài thơ nhan đề “Cà phê ban mai”. Tôi không thích cà phê bằng trà. Với lại có quá nhiều bài thơ viết về chủ đề cà phê. Bài nào cũng giống nhau về tâm trạng buồn, cô đơn. Ít ngày sau tôi mới đọc. Bỗng giật mình. Bài thơ không viết về cà phê mà viết về một cảm xúc đặc biệt, rất đáng trân trọng.

Buổi sáng tiếng con reo trong nắng nõn/ Nắng ngọt ngào thời ba hai mươi /Cà phê nhé ba, có cả bạn trai con nữa/ Gió theo ba mát rượi đến nơi mời/ Ba gặp mẹ trong con ngày rất trẻ/ Hoa cúc ơi, hoa cúc dịu dàng/ Tay con khuấy hương cà phê ngát nhẹ/ Ba lặng ngồi nghe ký ức ngân vang/ Ba mươi năm sau/ Lại có một chàng trai mang lòng ba sớm ấy/ Đặt những câu thơ lên môi/ Đặt cả đất trời lên ngực/ Hoa cúc ơi, hoa cúc thật vàng/ Khi mắt lá xanh đằm mắt lá/ Nắng khẽ dìu cho những ngón tay đan/ Những giọt ban mai hẹn hò trong đáy cốc/ Ba chứng nhân hai ánh mắt thiên thần!”.

Bài thơ này thật khó viết. Nhưng, Trương Nam Hương đã thể hiện rất thành công. Bởi anh luôn sống bằng trái tim nhân hậu, tinh thần lạc quan, sẻ chia tình cảm, một niềm tin vào cuộc đời rộng mở.

Hương lúc nào cũng tha thiết và đau đáu với thơ. Nhiều năm nay đã có thói quen mỗi sáng dậy thật sớm, lên sân thượng tưới giàn hoa lan và vườn cây kiểng. Mọi việc đâu vào đó, cũng là lúc anh thư thả một mình với ly trà thật ngon, quyển sổ cùng cây bút trên tay để ghi những cảm xúc thơ tươi ròng chợt đến. Nhiều bài thơ trong tập Thời nắng xanh và những bài thơ khác đã ra đời trong hoàn cảnh này. Nếu chú ý, ta sẽ thấy ở đó có nhiều bài thơ tứ tuyệt chắt lọc từng chữ, từng câu chỉn chu, nhất là những bài thơ viết về danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu... Anh tâm tình: “Một bài thơ viết xong, có lúc cũng câu đó nhưng mình đưa ra nhiều “phương án” khác nhau, để cuối cùng chọn lấy câu, chữ nào đắc ý nhất”. Qua đó, chúng ta thêm hiểu nỗi nhọc nhằn của lao động nghệ thuật thơ là vậy.

Trải qua thời gian cùng những biến thiên đời sống, anh vẫn giữ tâm hồn thơ mê đắm, tài hoa như thuở ban đầu. Anh cũng luôn giữ tâm thế nhẹ nhàng, không màng danh lợi phù du. Vì tất cả những thứ đó là vật ngoại thân. Không cần thiết. “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian/ Chẳng quen khoanh dạ mặt bàn/ Về thưa ghế đẩu cơ hàn mẹ cho!” (“Dặn lòng”).

Nguồn: https://cand.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm
Đào Phong Lan “không thể nói lời từ biệt” với thơ!
Bài viết của Bảo Gia đăng trên tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 98, ngày 02/11/2023.
Xem thêm
Đò đầy vơi, bến cũ chẳng quên người!
Bài viết của PGS.TS Ngô Minh Oanh về tập thơ Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thế sự trong Sóng đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Sóng đời của Trần Ngọc Phượng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023.
Xem thêm
Khi văn chương tấn công văn hóa bản địa…
Người viết sử - Truyện ngắn của Nguyễn Trường, lần đầu tiên đề cập đến hậu quả của tác phẩm văn học.
Xem thêm