TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Trí Huân với tiểu thuyết Chim én bay

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-03-19 22:30:43
mail facebook google pos stwis
698 lượt xem

“Chim én bay” là tên cuốn tiểu thuyết được xuất bản năm 1988 và cùng với tiểu thuyết “Năm 1975 họ đã sống như thế”, xuất bản năm 1979, nhà văn Nguyễn Trí Huân đã được nhận “Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật” năm 2007. Và cái tên “chim én bay” tôi xin phép được lấy để làm tựa cho bài viết này.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân sinh năm 1947, tuổi Đinh Hợi. Gặp ông tôi đùa: “Em nghe người ta nói, ai tuổi Đinh Hợi sẽ là người đường sự nghiệp có thể lên cao. Số sống sang cả, vấn đề tiền tài chỉ là vấn đề phụ thuộc công danh, khi công danh đã lên cao thì sự nghiệp và tiền tài thêm phần vững chắc và sung túc. Có đúng phải vậy không bác?”. Nhà văn Nguyễn Trí Huân mỉm cười, khuôn mặt ông chợt đỏ lên như người xấu hổ vậy (thực ra nhà văn Nguyễn Trí Huân là người khiêm tốn, có người bảo ông sống khép mình, nên hễ nghe ai “khen” là mặt ông lại đỏ), ông mãi lâu mới nói: “Chắc là người ta nói vui thế thôi”. Tôi được đà: “Mà em thấy số tử vi nói cũng đúng đấy bác ạ”.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân

Năm 1965, khi vừa tròn 18 tuổi, chàng trai trẻ Nguyễn Trí Huân lên đường nhập ngũ, ông làm lính tại Quân chủng Phòng không – Không quân. Chính ở môi trường của một quân chủng non trẻ mà huy hoàng, với những chiến công sáng chói, bắn máy bay Mỹ “rụng như sung” trong suốt những năm cả miền Bắc đánh trả không quân Mỹ ấy, đã thôi thúc anh lính trẻ vốn là học sinh giỏi văn của trường cấp 3 Đan Phượng cầm lấy cây bút.

Những bài báo ra đời cùng với những trang bản thảo văn học “nóng hôi hổi” đã đưa anh chiến sĩ trẻ Nguyễn Trí Huân trở thành “cây viết” của Quân chủng Phòng không – Không quân. Và rồi anh chiến sĩ phòng không thích viết văn, làm báo ấy năm 1971 được cử tham gia học Khóa 4, Lớp Viết văn do Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Uỷ ban Thống nhất của Chính phủ tổ chức tại Nhà sáng tác Quảng Bá, Hà Nội. Đối tượng tham dự khoá học là những sinh viên năm thứ 3, thứ 4 Khoa Ngữ văn (có số ít Khoa Sử) của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Nguyễn Trí Huân cùng với các cây bút quân đội như Triệu Bôn và Phạm Minh Lợi và một số cây bút khác là cán bộ dân sự cùng được cử tham gia khóa học.

Buổi chia tay khóa học diễn ra vô cùng xúc động bởi lẽ đây không là buổi lễ bế giảng thông thường như các khóa học thông thường mà đó chính là “buổi chia ly màu đỏ”. Các học viên tốt nghiệp đều được “xung” vào quân ngũ và được đi B luôn. Hôm ấy Nguyên Hồng, ông nhà văn “xóm Cầu Đen”, già dặn văn trường từ hồi mới 20 tuổi thế mà ông cứ nắm chặt tay từng học viên một và khóc.

Nguyễn Trí Huân cùng với Phạm Minh Lợi được cử vào B3 (Khu 5), còn Triệu Bôn đi “sâu” hơn là tới tận B2 (miền Đông Nam bộ). Từ Trạm giao liên Cự Nẫm (Quảng Bình) nhóm “nhà văn ra trận” xuống xe đi bộ theo đường Trường Sơn. Nhà văn trẻ Nguyễn Trí Huân vào tới Quảng Nam thì được nhà văn Nguyên Ngọc cử người ra đón về Bộ Tư lệnh Quân khu 5 khi đó đóng ở miền Tây Quảng Nam. Những tưởng vào tới chiến trường rồi là sẽ được “ra trận”, ai dè, như nhà văn Nguyên Ngọc đã phổ biến “Giờ các cậu lên chỗ tăng gia của quân khu ở Ðak Sao, Kon Tum để sản xuất cái ăn trước đã”. Đang hừng hực mà được phổ biến như vậy nên Nguyễn Trí Huân thấy hơi bị hẫng. Và nhất là khi vào tới Bộ Tư lệnh quân khu được mọi người ùa ra chào đón và chờ quà Tết từ ngoài Bắc vào nhưng dọc đường hành quân, trong ba lô của mình có bao nhiêu thuốc lá, bánh kẹo đã chia cho bộ đội hết.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân kể cho tôi nghe chuyện mà giọng ông nghèn nghẹn: “Tôi cứ ân hận mãi. Tết năm ấy vẫn là khoai sắn thôi”. Tôi hiểu, tận trong sâu thẳm lòng mình ông vẫn một lòng gắn bó với mảnh đất “Khu 5 dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Đúng là ông rất gắn bó thật, có một dạo mọi người cứ ngỡ ông “là người” của Sư đoàn 3 Sao Vàng anh hùng chiến đấu ở mặt trận Bình Định. Hỏi ra mới biết, mỗi khi được cử đi thực tế với bộ đội thì lần nào ông cũng “đi với Sư 3”. Ông đi với cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 3 nhiều lần, đến nỗi ngoài cây bút và cuốn sổ tay ghi chép ra, ông còn trực tiếp cầm súng đánh nhau như một người lính trận. Và cũng vì thế mà ông được Tư lệnh Sư đoàn 3 đề nghị lên cấp trên cho ông được nhận Huân chương Chiến công từ chính đơn vị này.

Tôi hỏi thêm: “Bác đi với Sư 3 nhiều thế, bác có viết nhiều về Sư 3 không?”. Nhà văn Nguyễn Trí Huân lần này không cười đỏ mặt nữa, ông hào hứng: “Viết nhiều lắm. Tiểu thuyết “Năm 1975 họ đã sống như thế” tôi viết về những người lính của Sư 3. Sư 3 chính là “nhân vật” xuyên suốt của tiểu thuyết”. Tôi gật đầu: “Thảo nào đọc cuốn ấy em thấy ký ức về chiến tranh trong những mảng chất liệu tươi nguyên, ròng ròng sự sống như thể tiếng súng vừa ngưng nghỉ ngày hôm qua vậy”.

Miền Nam được giải phóng, cũng như các nhà văn – chiến sĩ trưởng thành từ các mặt trận khác, Nguyễn Trí Huân được cử đi học ở Trường Viết văn Nguyễn Du, ông học Khóa 1 từ 1979. Khóa ấy có 44 học viên, toàn “nhân tài đã nổi danh” cả. Đó là các nhà thơ nhà văn: Hữu Thỉnh, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Đức Mậu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trung Trung Đỉnh, Xuân Đức, Thái Bá Lợi và nhiều người khác. Tốt nghiệp “Nguyễn Du” năm 1982, nhà văn Nguyễn Trí Huân được điều về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông gắn bó với “Nhà số 4” từ đó, trưởng thành từ Biên tập viên lên đến Tổng biên tập. Ông là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội lâu nhất, những 14 năm.

Thấy vui vui tôi hỏi thật: “Trong sách bác toàn viết về những người lính chứ chả thấy bác nói gì về mình cả. Hay là hôm nay bác kể chuyện nào mà bác nhớ nhất hồi bác ở chiến trường ấy”. Nhà văn Nguyễn Trí Huân chỉnh lại tư thế ngồi, hình như ông muốn ngồi cho chắc chắn hơn thì phải. Rồi ông nói: “Kể về những lần mình hút chết nhé”.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân đã xuất bản các tác phẩm chính: “Mặt cát” (tập truyện ngắn, 1977), “Năm 1975 họ đã sống như thế” (tiểu thuyết, 1979) “Dòng sông của Xô nét” (tiểu thuyết, 1980), “Chim én bay” (tiểu thuyết, 1988), “Dấu thời gian” (ký, 2004).

Năm 1968, anh lính trẻ, cây viết trẻ của Quân chủng Phòng không – Không quân được cử đi thực tế ở Sư đoàn phòng không 367, Sư đoàn đang bố trí trận địa bắn máy bay Mỹ ở Quảng Bình. Một trưa yên ắng, mọi người đang chuẩn bị ăn trưa thì bất ngờ những chớp lửa lóe lên rồi xung quanh u đặc bởi những tiếng nổ dồn dập. Máy bay Mỹ lao tới bất ngờ và liên tiếp thả bom bi xuống trận địa ta. Cùng với mọi người, phóng viên Nguyễn Trí Huân cũng chỉ kịp chúi đầu xuống gầm bàn. Bỗng anh thấy đau nhói ở bụng chân.

Dứt loạt bom, mọi người nhao nhao hỏi: “Anh nhà báo đâu rồi?”. Họ đã nhìn thấy anh và một người nhanh chóng xốc anh lên lưng chạy dọc giao thông hào vào hầm trú ẩn. Rất may Nguyễn Trí Huân chỉ bị thương nhẹ. Anh được mổ gấp gắp những viên bi ra. Nhà văn Nguyễn Trí Huân cười: “Giờ trong cơ thể tôi vẫn còn ba, bốn viên bi nằm ở đâu đó”. Rồi ông nói thêm: “Chuyến đi đó tôi viết được bài ký “Ghi chép ở một trận đánh”. Kể cũng vui vui”.

Rồi năm 1985, nhà văn Nguyễn Trí Huân được cử sang chiến trường Campuchia. Một lần ông đi cùng các chiến sĩ tới Xiêm Riệp. Giai đoạn này ở Campuchia ít có những trận đánh lớn, bọn tàn quân Pol Pot tuy bị ta đánh tan tác nhưng chúng vẫn tản ra và thực hiện “đánh du kích”. Chiếc xe chở quân ta, trong đó có nhà văn Nguyễn Trí Huân, đang di chuyển cùng với một chiếc xe khác chạy trước thì bất ngờ vang lên tiếng nổ của súng B40. Chiếc xe chạy trước bị bốc cháy cuồn cuộn. Rất may bọn lính Pol Pot chỉ đánh lén một phát rồi chuồn nhanh vào rừng. Chiếc xe bị bắn cháy đó chính là chiếc xe mà nhà văn Nguyễn Trí Huân đã ngồi trước đó ít phút, ông được đổi xe đơn giản là vì xe ấy quá đông người ngồi.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân nói nhỏ: “Chuyến đi đó về tôi viết bài ký “Tháng 3 năm 1985”. Có người đã nói vui: Chỉ vì một bài ký xoàng xĩnh mà cậu suýt đổi cả sinh mạng”.

Chừng như chuyện còn nhiều nhưng lúc đó nhà văn Nguyễn Trí Huân có điện thoại, ông đứng dậy để nghe máy. Tôi nói vui theo: “Về hưu hẳn rồi mà bác vẫn bận việc”. Ông nhà văn “Chim én bay” lại đỏ mặt lên: “Viết về người lính và về chiến tranh cách mạng không bao giờ là đủ cả. Điện thoại nhắc nhớ tới dự Cuộc gặp mặt của Tổng cục Chính trị với các nhà văn Quân đội nhân xuân Quý Mão”.

NGUYỄN TRỌNG VĂN/VANVN

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm