TIN TỨC

Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-18 02:26:19
mail facebook google pos stwis
234 lượt xem

NGUYỄN XUÂN SANG

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.   

 

Nhà báo Đào Khoa Thư. Ảnh tác giả cung cấp.

 

Nữ nhà báo Đào Khoa Thư quê ở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; cựu học sinh chuyên Anh, Trường PTTH chuyên Lê Qúy Đôn của tỉnh; cựu sinh viên Học viện Ngoại giao - Hà Nội; từng làm phóng viên, biên tập viên báo Việt Nam New (tờ báo tiếng Anh của TTXVN); báo Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh. Cô vinh dự được nhận học bổng Fulbright và tốt nghiệp thạc sĩ tại Đại học New York - Mỹ.

Nhà báo Đào Khoa Thư nguyên phóng viên Thời sự quốc tế, Báo Tuổi Trẻ; từng tháp tùng Thủ tướng để đưa tin nguyên trang, như bài “Bế mạc ASEAN 37, chiều 15-11-2020 - hướng đến vai trò hạt nhân khu vực”; “25 năm quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ những bước tiến dài trong ¼ thế kỷ” - Tuổi trẻ 11-7-2020; “Làm cố vấn của tổng thống (Indonesia) là phụng sự Tổ quốc” - Tuổi trẻ 2-9-2020; “ASEAN đoàn kết để vượt biến cố lịch sử” - Tuổi trẻ 27-6-2020; “Việt Nam chủ động, trách nhiệm và dẫn dắt” - Tuổi trẻ 27-6-2020; “Dù ai là Tổng thống, Việt - Mỹ vẫn bền chặt” - Tuổi trẻ 23-11-2020…Ngày 20 tháng 7 năm 2020 Hội đồng giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại tặng giải Nhất thể loại báo in cho tác phẩm “Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều: Hãy cho hòa bình một cơ hội”, ngôn ngữ Tiếng Anh cho nhóm tác giả, trong đó có Đào Khoa Thư.

Nếu như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có bài thơ “Mùa bình thường” với những câu thơ mang hình ảnh chân thực, sống động: “Nhà văn ngồi viết văn/Nhà sử học bận rộn với quá khứ/Viên quan tòa mặc áo thụng nói lời ngay thẳng/ Tôi chỉ mong mùa bình thường/ Đủ cả hoa và rác như thói thường vẫn thế/Có điều lương tâm ta trong/Sống bình thường và khao khát xa xôi…”. Nhạc sĩ Văn Cao có nhắc đến “mùa bình thường” trong ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” có ca từ giản dị, réo rắt, vui tươi: “Rồi dập dìu, mùa Xuân theo én về/Mùa bình thường, mùa vui theo én về”. Còn nhà báo Đào Khoa Thư mở đầu tập bút ký là bài “Mùa bình thường”, tác giả kể hồn nhiên chuyện sinh viên, nghiên cứu sinh ở rải rác khắp New York, có sự tham gia của cô gái từ San Francisco bay sang bờ Đông thăm thú vào một ngày cuối tuần. Họ hẹn hò và tổ chức gặp mặt để “có dịp trổ tài nấu những món quen thuộc: nem rán, thịt đông, canh bóng thả, su hào, cà rốt tỉa hoa rồi xào cùng dầu hào, nấm hương thơm nhức mũi” mỗi người tự “đạo diễn” một món ruột ưa thích của mình để góp chung vào cổ bàn “tiệc” cây nhà lá vườn khao nhau, tạo sự ấm áp, xích lại gần hơn, vơi đi phần nào nỗi nhớ quê nhà canh cánh trong lòng: “Mọi người ngồi quây bên mâm cỗ dã chiến. Cái bếp điện mi ni vẫn kêu rè rè ở bên để giữ nóng cho món cá om dưa nồng nàn mùi quen thuộc…khi cả lũ đã no kềnh và chuẩn bị dừng đũa, người chị ngăn lại rồi lật đật chạy vội vào bếp bưng ra nồi miến nấu măng trộn lẫn lòng gà nghi ngút khói”. Tết đến xuân về trong ngôi nhà Việt là những ngày rộn ràng, thiêng liêng nhất trong năm. Gia đình đoàn tụ, mỗi người một việc, trang hoàng nhà cửa, chuẩn bị món ăn thức uống đón ba ngày Tết. Ấm áp nhất là đêm giao thừa, các thành viên trong gia đình ngồi quây quần quanh nồi bánh chưng xanh sôi sùng sục, hơ đôi bàn tay giá lạnh cuối năm vào bếp lửa, nghe lòng ấm áp làm sao. Tùy theo phong tục sở thích từng địa phương mà làm nên những loại bánh truyền thống. Riêng Quảng Trị nổi tiếng nhất là món bánh bột lọc “bọc con tôm”, món bánh bao nhân thập cẩm từ người già đến trẻ nhỏ đều thích.

Ở Mỹ trong Lễ Tạ ơn, nhiều gia đình nấu các món ngon để đánh dấu thời gian bắt đầu Mùa Vọng. Nhóm sinh viên cũng chung tay tổ chức bữa tiệc mang hơi thở một gia đình đa sắc màu thời hội nhập: “Cô bạn người Argentina chuẩn bị món bánh chocotorta và một chai rượu trứ danh, anh bạn Mỹ vật lộn với món gà tây nướng ăn kèm khoai nghiền, chị Pakistan lặn lội lên khu Queens mua bằng được món kabab gà cay thơm, tôi đong bột, kích hoạt men cho món bánh bao thập cẩm nhân thịt bò băm…Mỗi lần được trò chuyện với gia đình, người thân, bạn bè, được thấy quê nhà qua từng bức ảnh chụp mảnh vườn, góc phố an bình, chưa phải Tết nhưng lòng tôi đã vui như Tết đến từng ngày…”. (Lòng vui như Tết đến từng ngày). Dọc dài trên đất nước ta có những loại cây trái khác nhau, nó trở thành món đặc sản nổi tiếng ở các vùng miền. Tỉnh Quảng Trị gió Lào, cát trắng có tiêu vùng Cùa ở Cam Lộ được chào đón trong khuôn khổ chương trình “Quảng bá địa phương Việt Nam tại Hoa Kỳ”. Tiêu Cùa nồng cay, thơm ngon kết hợp được với các loại đồ ăn khắp năm châu bốn bể. Khi cô đến Campuchia được người bạn Khmer đãi món Prohoc, còn gọi là mắm bò hóc: “Nhắm mắt nhắm mũi đưa vào miệng và ngạc nhiên sao cái tổ hợp lổn nhổn ấy lại trở nên beo béo, bùi ngùi, đậm đà vị mắm…Rắc chút bột tiêu thơm nồng vào bát mắm Prohoc, món mắm thêm đậm đà. Bạn tôi nhón chút tiêu Cùa bỏ vào bibibap. “Thử xem thế nào?”, nó nói và bất ngờ thốt lên: “Cay quá”, rồi cười thật mãn nguyện”.

Hành trang cô mang theo những lần ra nước ngoài luôn có món đặc sản “nồng cay Quảng Trị”. Một lần cô đến thăm bố nuôi là một người nông dân ở vùng núi  Đông Bắc Nhật Bản, cô tặng một gói tiêu Cùa: “Tôi còn nhớ như in buổi sáng đã xa, bát mì ramen trứ danh của tỉnh Kitakata vùng Tohoku trở nên thơm ngon nhờ chút tiêu xay từ vùng Cùa quê hương tôi. Buổi sáng tuyết phủ kín sân và trong nhà đồ ăn thơm phức, nồng cay mùi hồ tiêu Việt khiến ai cũng phải xuýt xoa” (Và luôn mang theo “nồng cay Quảng Trị”). Cô đã từng đi qua những nơi đặt đại bản doanh của nhiều tập đoàn dệt may nổi tiếng và đến Hàng Châu, thủ phủ tơ lụa của Trung Hoa. Hàng Châu là một công xưởng, gia công, cung cấp hàng lụa, hàng thời trang cho cả thế giới với nhiều loại giá cả. Cô nhớ Việt Nam, có: “Lụa Hà Đông từng được chọn để may triều phục và đặc biệt được ưa chuộng dưới triều nhà Nguyễn, từ vua Khải Định đến vua Bảo Đại đều sai sứ thần ra tận làng lụa Hà Đông mua sa, mua gấm về dùng…Đám cưới ngày xưa, cô dâu về nhà chồng, người mẹ tự tay dệt cho khổ lụa làm của hồi môn, “Em mặc yếm thắm, em thắt lụa hồng, em đi trẩy hội non sông” (Hiu hiu nhớ lụa). Khi mới học lớp hai, cô nghe mẹ đọc bài thơ “Êmily, con…” của nhà thơ Tố Hữu với bao cảm xúc bùi ngùi. Mười lăm năm sau cô ngồi bên con sông Pôtômac chảy êm đềm, nhìn dòng sông và ngẫm ngợi. Ngày 2/11/1965, anh Noman Morixon bế con gái yêu là bé Êmily mới 18 tháng tuổi đến Lầu Năm Góc. Anh đặt con gái xuống đất, rồi tự thiêu bên bờ sông Pôtômac, cách Bộ quốc phòng Mỹ và nơi làm việc của Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara vài chục bước chân, để phản đối chiến tranh Việt Nam. Sự kiện này làm chấn động nước Mỹ và cả thế giới yêu chuộng hòa bình: “Tôi đã cố công tìm dọc bờ sông Pôtômac, đâu là nơi Morixon đặt con gái Êmily ngồi xuống và viết lá thư cho vợ”…Êmily con ơi/Trời sắp tối rồi/Cha không bế con về được nữa/Khi đã sáng bừng lên ngọn lửa/Đêm nay mẹ đến tìm con/ Con hãy ôm lấy mẹ mà hôn/Cho cha nhé/Và con cũng nói dùm với mẹ/Cha đi vui/ Xin mẹ đừng buồn…” (Ngẫm ngợi bên dòng sông Pôtômac). Tháng 8/2017 cô và 14 bạn trẻ đại diện cho thanh niên các nước Đông Nam Á quan tâm ứng phó rủi ro thiên tai và kiến tạo hòa bình, tổ chức tại Thủ đô Manila - Philippines. Bản báo cáo chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2017 xuất bản bởi tổ chức Germanwatch thuộc Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Cộng hòa Liên bang Đức đã chỉ ra rằng: - Philippies nằm trong top 5 quốc gia hàng đầu gánh chịu hậu quả nặng nề của các hiện tượng thời tiết cực đoan, Việt Nam nằm ở vị trí số 8. “Nhằm giảm thiểu những rủi ro về thiên tai, bên cạnh những nỗ lực của chính phủ, người dân Philippies cũng đã có những sáng kiến dựa trên nền tảng sức mạnh cộng đồng. Điều đó là những biện pháp hữu hiệu và có khả năng áp dụng được vào Việt Nam, mà cụ thể là các tỉnh miền Trung trong bối cảnh thiên tai diễn biến phức tạp và khó lường như hiện nay” (Giảm thiểu rủi ro thiên tai từ kết nối thông tin và liên kết cộng đồng).

Ấn tượng nhất khi cô đến Nhật Bản là sự nhiệt thành, thân thiện, ân cần và rất mực mến khách. Chia tay Kitakata Green Hotel, cô phục vụ phòng, người đầu bếp và vài nhân viên khác xếp hàng đứng tiễn: “Họ vẫy tay, cúi đầu chào, những ánh mắt còn dõi theo mãi là những gì đậm nét nhất mà tôi nhớ về Nhật Bản. Nước Nhật khắc kỷ và trang nghiêm. Người Nhật kỷ luật và cần Mẫn” (Những ánh mắt ở lại). Trong khuôn khổ chương trình giao lưu thanh niên Nhật Bản - Đông Á (JENSYS 2.0), cô cùng sinh viên ngành Báo chí Việt Nam đến thăm và ở lại thành phố Kitakata, thành phố đứng thứ hai về sản phẩm nông nghiệp trên toàn lãnh thổ Nhật Bản, với các sản phẩm nổi tiếng: mì ramen, rượu Sake, nước tương…Qua trao đổi và quan sát thực tế, cô biết nông dân Nhật Bản không sử dụng hóa chất công nghiệp dùng cho nông nghiệp, chỉ sử dụng sản phẩm vi sinh, hữu cơ để giữ nước, giữ chất cho cây. Vì vậy cho ra những hạt gạo no tròn, căng bóng, đầy chất dinh dưỡng. Người nông dân Nhật Bản không chỉ cắm mặt với đất, còn là kỹ sư, là chủ doanh nghiệp, nắm bắt nhanh xu hướng mới trong sản xuất mới tồn tại và phát triển. Việt Nam có đến 70% dân số ở vùng nông thôn, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế trụ cột của đất nước. Và cô mong mỏi: “tương lai gần, sự hợp tác giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản trong ngành nông nghiệp sẽ đem lại hiệu quả thực chất, để người nông dân Việt Nam có thể sống được, sống tốt với nghề nông, và nghề nông sẽ trở thành “một sự lựa chọn” trong cuộc đời của những người trẻ” (Tôi chọn làm nông dân). Trong chuyển trải nghiệm thành phố Manila - Philippin, diện tích lớn hơn Singapore, dân số gấp đôi Cộng hòa Irelend. Có công viên Rizal với cột cờ kiêu hãnh, là quãng trường nhạc nước sáng đèn mỗi đêm. The Manila Hotel xây dựng từ năm 1912 với lối kiến trúc Tây Ban Nha. Khu thành cổ rộng 64 ha do người Tây Ban Nha xây từ những năm 70 của thế kỷ 14, được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Sau khi trải nghiệm những nơi nổi tiếng, mọi người được thưởng thức các món ăn thức uống ngồn ngộn trên bàn tiệc … tất nhiên là có món: cơm tẻ!. “Trong buổi tiệc chiêu đãi ngày hôm sau, một cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Philippines đã “bật mí” với tôi rằng:“Gạo Việt Nam đấy!”. Bác còn ân cần giải thích thêm rằng gạo nước ta rất được ưa chuộng ở nước bạn vì phù hợp với khẩu vị, tơi, xốp và hơi mềm” (Mainila, xa mà gần). Năm 2011, cô là một trong 60 thành viên trẻ tham dự Diễn đàn thanh thiếu niên châu Á - Thái Bình Dương ở Hàn Quốc về môi trường. Được tham quan công viên sinh thái rừng ngập mặn Gyeongancheon, Trung tâm năng lượng xanh Suji, Đài quan sát Paldang. Việc giáo dục về môi trường ở Hàn Quốc đã nhận được sự quan tâm không chỉ của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ mà còn từ những người dân. Trong lần trải nghiệm này, cô nhận thức rằng “Lời cam kết bảo vệ môi trường một cách triệt để …Và khi các thành viên đến từ Đài Loan, Indonesia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam lần lượt đọc vang lời cam kết bằng ngôn ngữ của dân tộc mình, tôi chợt nhận ra, trong hành trình bảo vệ màu xanh cho Trái đất, mình không hề đơn độc” (Bảo vệ môi trường trong tầm tay của bạn). Năm 2012 cô là học sinh duy nhất tỉnh Quảng Trị thành viên của Diễn đàn Tuổi trẻ Việt Nam (Vietnam youth forum - VYF), một sự kiện được tổ chức thường niên vào trung tuần tháng 7, gồm 29 bạn trẻ đến từ khắp mọi miền đất nước và một số du học sinh đang học tập ở những ngôi trường danh tiếng trên thế giới, như: Ha vard, Princeton, Columbia, Cambridge…tụ họp tại khách sạn Khăn Quàng Đỏ - Thủ đô Hà Nội. Xuyên suốt chủ đề: “Tôi đi tìm điểm tựa”. Diễn đàn nhằm giúp người trẻ tìm ra được điểm tựa của bản thân để khởi đầu cho các khát vọng. Với tinh thần lắng nghe, được lắng nghe và phản biện: “Những vấn đề đưa ra đều mang tính thời sự và gợi nhiều suy nghĩ như: Có nên xây dựng casino ở Việt Nam?; Thực trạng đói nghèo trên thế giới và khái niệm đói nghèo đa chiều…Người trẻ tập làm doanh nhân xuất khẩu cá tra và ô tô trước những biến động khắc nghiệt của thị trường. Sẵn sàng trở thành những người làm chủ đất nước với quyết định hợp lý, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội…từ đó xác định rõ trách nhiệm và vị trí tuổi trẻ hôm nay trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam yêu dấu của mình…Diễn đàn là cầu nối để các bạn có thể trao đổi, chia sẻ kỹ năng hoạt động cộng đồng. Diễn đàn nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ từ các tổ chức, nhà tài trợ, nhà bảo trợ” (Khi người trẻ tìm thấy điểm tựa).

Đến tuổi trưởng thành tung cánh bay xa làm người công dân toàn cầu, cô nhớ như in những kỷ niệm lúc còn nhỏ. Ấy là ngày đầu tiên được ba dắt tay đến Trường Tiểu học Nguyễn Tất Thành để nhận lớp. Lớp 1/2 mà ba ngỡ phòng 12 nên ngồi trong đó chờ, hóa ra là nhầm!. Rồi cô mất tập trung trong giờ học, ăn chậm, mắc tật nói chuyện riêng, giờ ngủ trưa lại “buôn chuyện”, “kiện” cô giáo vì kiểm tra môn Sức khỏe “chỉ có” điểm 8!. Ôi chao ơi, biết bao điều thơ dại của trẻ con gợi nhớ lại đến buồn cười!. Nhờ có cô thủ thư nhà trường mà cô sớm tiếp xúc với những tác phẩm văn học thế giới, vượt qua sự hạn hẹp của sách giáo khoa, như: “Heidi - Cô bé trên núi cao”, “Túp lều bác Tôm”… Lúc nhỏ có người nói cô lớn lên sẽ làm công việc mình mơ ước. Cô Liên, thầy Phiến đã giúp cô nhận ra khả năng viết lách của mình mà gắng sức trau dồi: “Để rồi bẵng đi một thời gian dài thử sức với nhiều điều mới lạ, tôi lại quay về với việc viết lách như thầy cô đã từng tin tưởng”. (Nơi trở về với tôi - trẻ  con của những ngày rất xa). Lúc học cấp Tiểu học,  cô xem học sinh Trường THPT chuyên Lê Qúy Đôn là thần tượng: “Các anh chị ấy là ai, ở đâu đến, sao họ giỏi giang vậy, thông minh vậy, đẳng cấp vậy?”. Cô tự đặt câu hỏi: “Mình có thể vào trường chuyên Lê Qúy Đôn được không, sức vóc mình kham nổi không?”. Cô ước mơ: “Nếu được học trong một ngôi trường danh tiếng nhường ấy, quả là một hạnh phúc vô bờ”. Mơ được, ước thấy. Học xong Trung học cơ sở, cô thi đủ điểm vào cả hai lớp Anh và Văn - Trường THPT chuyên của tỉnh. Thoạt đầu, cô chọn học Văn, sau đó xin chuyển sang lớp Anh. Cô đã trải qua hai lớp mới tìm được đúng niềm đam mê và sở thích của mình trong học tập. Trước khi ra Hà Nội học trường Đại học Ngoại giao, lòng cô trào dâng niềm xúc động: “Ba năm trôi qua, bao kỷ niệm đong đầy dưới mái trường mà tôi rất mực yêu dấu ấy, làm sao bút giấy nào ghi hết được. Xin được cúi đầu tạ ơn những thầy cô suốt bao năm tháng đã dạy dỗ tôi và bạn bè tôi nên người. Xin tri ân Trường THPT chuyên Lê Qúy Đôn - Quảng Trị” (Bên trời mây trắng). Thế kỷ 19 người Pháp đã đưa bánh mì vào Nam Việt Nam. Bánh mì là một loại baguette với lớp vỏ ngoài giòn tan, ruột mềm, bên trong là nhân, như: chả lụa, thịt, cá hoặc thực phẩm chay, kèm theo một số nguyên liệu phụ khác: pa tê, bơ, rau, ớt, trứng và đồ chua. Châu Âu là nơi sản sinh ra các loại bánh làm bằng bột mì, mỗi loại mang cốt cách, hình dáng và sắc màu khác nhau: “Bánh mì fjellbrod của Na Uy rắn và khô, bánh mì focaccia của Ý mặn mòi và đậm hương thảo mộc, bánh mì xoắn bretzel của Đức, bánh mì zsemle của Hunggary nhỏ nhắn đáng yêu, bánh mì pitka của Bulgary cuộn tròn trong ổ. Nếu bạn đến thăm nước Nga, những người thương yêu sẽ đón bạn bằng bánh mì và muối. Mỹ tục này đã trở thành một phần trong lễ tân quan trọng của Liên bang Nga khi đón các nguyên thủ quốc gia. Sự bình đẳng và lòng bác ái khi tự thân bánh mì là dành cho tất cả, từ lão nông dân, anh sinh viên nghèo đến những bậc quý tộc, vua chúa” (Bánh mì tự bạch).

Khép lại 14 bài bút ký, tôi bổng thấy mình như trẻ ra, hiểu biết hơn về những đất nước mà nữ nhà báo Đào Khoa Thư đặt chân đến học tập, giao lưu, trải nghiệm. Và tôi rất khoái món tiêu vùng Cùa nồng nàn, thơm cay Quảng Trị quê cô.

N.X.S

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm