TIN TỨC

Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-19 22:53:20
mail facebook google pos stwis
221 lượt xem

ĐỖ NGUYÊN THƯƠNG

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.

 

Nhà văn Đỗ Nguyên Thương

 

Truyện ngắn Những cơn mưa thu đã in ở Tạp chí Văn nghệ Lai Châu mở đầu bằng hình ảnh “Mưa rả rích kéo dài cả tháng. Những cơn mưa rừng như thế này làm cho tiết trời ngày hạ trở lên lành lạnh”, từ giọng văn, hình ảnh đến ngôn ngữ, gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, thanh tao. Bỗng nhiên, tôi bỗng nhớ câu văn của Thạch Lam trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, đoạn mở đầu cũng êm ả “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru” … Truyện ngắn Những cơn mưa thu của Thanh Tám mở ra trong không gian mưa thu, mưa rừng với hình ảnh nhân vật Dịu, Dịu đang khóc vì nhớ mẹ, muốn gửi gắm qua câu chữ “tất cả những cảm xúc của người con xa xứ về người mẹ thân yêu ở miền mây trắng nơi quê nhà”. Mẹ Dịu đã mất, lẽ thường vợ chồng Dịu và con gái sẽ về quê thắp hương ngày giỗ mẹ. Nhưng lần này, chỉ Khâm (chồng Dịu) và con gái về quê. Dịu không về được vì lý do sức khỏe, lại đang thời kỳ thai nghén. Ai là phụ nữ hẳn đều hiểu, thông cảm sâu sắc cho lý do này, nghén là một giai đoạn trong thai kỳ, thường là trong ba tháng đầu. Khi đó, phụ nữ nào nghén nhẹ cũng mệt mỏi, nghén nặng thì nôn, không muốn ăn. Đã hai tháng nay, Dịu ở vào tình trạng đó, “không nuốt nổi một chút thức ăn nào vào bụng. Chỉ cần thức ăn đi qua họng thì lập tức nó quay lại nơi bắt đầu và trào ra. Đến cả sữa Dịu cũng không uống được” nên đành lỡ ngày “húy nhật” của mẹ. Dịu tha hồ khóc khi vắng chồng con, tha hồ khóc bởi nhớ thương và thấy mình có lỗi với mẹ. Vâng, cảm giác tội lỗi ấy cũng là một lẽ thường tình. Nhất lại là tình cảm mẫu tử, giữa mẹ và con gái, yêu thương, gắn bó có một không hai trong cuộc đời này. Và thổn thức trong mưa rừng mùa thu, Dịu nhớ lại những kỷ niệm của 10 năm trước, khi đó Miền anh trai Dịu và Khâm (khi đó là bạn Miền, nay là chồng Dịu) cùng nộp đơn lên dạy học ở Lai Châu, sau khi nộp đơn nhiều nơi ở các tình miền xuôi mà không được tuyển dụng “các tỉnh miền xuôi dư thừa giáo viên do đào tạo ồ ạt” và cả hai anh được nhận công tác tại Lai Châu. Mảnh đất đó, trong ý thức của người dân miền xuôi nói chung và bố mẹ Dịu nói riêng, là một vùng núi xa lắc. Thời đó, giao thông chưa thuận tiện bởi đường sá chưa tốt, cho nên cái cảm giác xa vời vợi càng ám ảnh cha mẹ của Dịu. Chính vậy, “các cụ” giận anh Miền, giận cả Khâm bởi Khâm là người thông báo cho Miền biết thông tin anh xem được trên ti vi là Lai Châu đang thiếu giáo viên, đang có nhu cầu tuyển dụng… Khi nhận giấy báo trúng tuyển, Miền vui bao nhiêu thì cha mẹ anh buồn và lo lắng bấy nhiêu. Mẹ thương con đi xa tận tỉnh biên giới, cha vừa thương vừa lo một nỗi lo rằng con trai đến nơi rừng thiêng nước độc, chuyện vợ con sẽ ra sao khi gia đình anh đang ở tình trạng “độc đinh”. Mẹ khóc cả tuần, cha giận lây sang cả anh Khiêm. Những nỗi lo và sự phản ứng có vẻ tiêu cực ấy lại chính là thước đo tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái. Hiểu tấm lòng cha mẹ, nhưng hai thanh niên Miền và Khiêm vẫn quyết chí ra đi, lập nghiệp ở một tỉnh vùng biên giới.

Rồi một ngày không xa, Dịu lại đi học sư phạm, sau chuyến thăm anh trai ở Lai Châu, thấy tình đồng nghiệp, tình thầy trò, tình làng nghĩa xóm của cư dân nơi anh trai công tác rất ấm áp, Dịu đã nghe theo các anh, nghe theo tiếng gọi của trái tim mình và lại lên Lai Châu dạy học, rồi nên duyên vợ chồng với Khâm. Anh Miền cũng yên bề gia thất tại mảnh đất biên giới Lai Châu. Sau khi mẹ mất, anh Miền muốn đón cha lên nhưng cha anh từ chối vì còn ở quê chăm lo hương khói cho mẹ, chỉ mong các con giỗ tết về thăm là vui rồi.

Câu chuyện được kể với giọng điệu nhẹ nhàng, chân chất. Cốt truyện gọn, bố cục mạch lạc, tình huống không gay cấn nhưng có sự hấp dẫn đối với độc giả. Người đọc hồi hộp cùng Dịu khi Dịu chưa biết thưa chuyện với cha mẹ như thế nào bởi phản ứng khá dữ dội của cha mẹ khi con trai lên Lai Châu dạy học, giờ Dịu lại lên Lai Châu…Người đọc vui cùng niềm vui của Dịu khi ước mơ thành hiện thực. Đất Lai Châu mến khách, học sinh Lai Châu ngoan ngoãn, đáng yêu. Và Lai Châu, trở thành nơi gắn bó với anh em Dịu, vợ chồng Dịu, vợ chồng anh Miền.

Yêu nghề, yêu trẻ nên Miền, Khâm, Dịu vừa dạy, vừa dỗ học sinh, vừa làm công tác tuyên truyền với phụ huynh học sinh “đến nhà học sinh vận động bố mẹ bọn trẻ cho bọn trẻ đến lớp vào đầu năm học mới”. Các thầy cô miền xuôi lên lập nghiệp vùng cao còn lên nương cắt lúa, thu ngô giúp phụ huynh, tạo thiện cảm để “dân vận” cho học sinh được đi học. Sự kiên nhẫn và kỳ công còn thể hiện rõ rệt khi các thầy cô đến tận nhà phụ đạo kiến thức cho học sinh, bất chấp thời tiết mưa hay nắng. Không chỉ dạy trẻ, anh Miền còn đi dạy phổ cập cho thanh niên chưa tốt nghiệp trung học cơ sở.

Dịu nhớ lại ngày ấy, khi Dịu lên thăm anh trai vào một ngày Lai Châu mưa như thác đổ, anh Miền và thầy hiệu trưởng đi dạy phổ cập, cô tranh thủ đọc sách, rồi có lúc cùng anh trai đi dạo quanh bản làng, trong sắc đẹp của hoàng hôn, gặp các chị phụ nữ dân tộc Lự răng đen nhánh như hạt na, thân thiện, gần gũi. Rồi tình yêu nghề của anh Miền, anh Khâm đã truyền lửa cho Dịu. Sau khi tốt nghiệp, cô lên Lai Châu cùng hai anh, bởi lời căn dặn và cái bắt tay thật chặt của anh Khâm, Anh nói nhỏ: “Em đi đường bình an. Năm học mới, các trò nhỏ được gặp lại cô Dịu!” với ánh mắt chứa chan hy vọng… và chính những cặp mắt trong veo của bọn trẻ ở bản Ma Sao, cặp mắt hiền hiền chứa chan hi vọng của anh Khâm cứ bám chặt lấy Dịu… và bởi duyên kỳ ngộ, họ cùng trở thành công dân tốt, giáo viên tâm huyết, trách nhiệm nơi vùng cao, được học sinh tin yêu, phụ huynh quý mến.

Trong đêm mưa rừng, Dịu nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp, mặc mưa rơi, tâm trạng khá dần lên với những hy vọng tươi sáng bởi “Dịu biết, chỉ ít ngày nữa thôi thì những cơn mưa dai dẳng kia sẽ kết thúc nhường không gian cho mùa thu rộn rã tiếng trống ếch khai trường”. Vâng, đã là quy luật “Hết mưa là nắng hửng lên thôi”. Bất luận trong hoàn cảnh nào, chỉ cần con người ta có niềm tin thì tương lai sẽ tươi sáng. Tiếng trống khai trường là âm thanh của rộn rã niềm vui cuộc sống. Kết thúc truyện ngắn như vậy, Thanh Tám gieo vào lòng người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, một niềm tin vào ngày mai tươi sáng, giúp người đọc hiểu và thêm yêu mảnh đất, con người Lai Châu.

Đ.N.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm