TIN TỨC

Những quả thơ của Ngọc Lê Ninh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-09-12 15:13:50
mail facebook google pos stwis
3224 lượt xem

(Ấn tượng nhân đọc Hạt mưa thầm, thơ của Ngọc Lê Ninh, NXB HNV, 2018)

 BÙI VIỆT THẮNG

1.Thực tế sáng tác thơ ca cho thấy, với một tác giả bất kỳ, tập thơ ra sau chưa hẳn đã vượt được “cái” ra trước. Đó gọi là sự trồi sụt của sự viết. Cũng là lẽ bình thường trong “nghề chữ” (theo cách nói của Nguyễn Tuân). Nhưng với Ngọc Lê Ninh, thật đáng mừng, khi tập thơ thứ ba Hạt mưa thầm, vẫn thấy tác giả giữ được phong độ, giọng điệu, ý tứ và câu chữ. Tập thứ ba không hoàn toàn mới, có một số bài đã từng in ở các tập trước. Nhưng khi đứng vào “đội hình” mới vẫn ăn nhập, hài hòa và quấn bện. Con số 38 bài thơ của Hạt mưa thầm, tôi nghĩ, là một cách tuyển chọn ban đầu. Một cách thử sức (gọi là “phép thử”) trên chặng đường dài gập ghềnh của sáng tạo thơ ca. Điều đáng nói hơn cả, chính là người làm thơ là một cá thể đa nhân cách, nên thơ đa dạng về giọng điệu, bút pháp, hình thức. Có thể chia Hạt mưa thầm thành mấy “kênh” sau đây: Thơ trữ tình công dân (Thơ mất ngủ, Tiếng bút trong đêm, Sóng gào, Hồn thiên tạo, Tình mẹ suối nguồn, Lời ru vũ trụ, Thành phố mùa bia, Mênh mông miền Trung, Chuyện mộc miên, Hạt mưa thầm, Miền hư ảo,...); thơ trữ tình riêng tư (Hàm số tình, Cứ yêu đừng ngại, Tình lốp, Tình chay, Khi tình yêu vùng dậy, Gông tình, Dự tình, Bản thảo tình, Dấu lặng yêu, Đèn tình, Tình quặng,...); thơ cảm hội thế giới tự nhiên (Mắt xuân, Gió xuân, Lời ru vũ trụ, Quả thơ, Áo thu rơi, Dự rừng,...).

2. Nếu theo sở thích cá nhân thì, tôi thích “kênh” 3, rồi đến 1 và sau rốt là 2. Cũng có thể tôi không giống người khác khi thẩm bình thơ Ngọc Lê Ninh (ví dụ khác Sương Nguyệt Minh, người viết Thay lời tựa, bắt đầu từ “kênh”1, rồi đến 2 và không có 3). Bắt đầu từ Mắt xuân. Tôi thấy người thơ cảm thức vũ trụ, tự nhiên thật âu yếm, nồng nàn, nâng niu “Mùa xuân về như anh đến với em/Gieo nắng ấm giục chồi lên xanh mắt/Nghe Mai, Đào nở tình yêu dào dạt/ Hương giăng đường đất nước ngập tràn xuân”. Bốn câu đầu chưa có gì thật đặc sắc để nói lên tâm cảm người thơ. Để nói lên cái nhạy bén, nhạy cảm, tinh tế của người thơ trước tạo vật. Nhưng từ khổ thơ thứ hai thì rất khác “ Kìa em yêu! Mạ thức dậy ngoài sân/Rễ non khẽ trườn mình trong gió rét/ Tay em bẻ từng mảng bùn xanh mạ/ Ta xuống đồng cấy kịp buổi đầu năm/ Anh lội bùn theo máy cấy cùng em/ Tay chuyển mạ vương nắng hồng lên má/ Trang sách đồng hiện  bao dòng chữ lạ/ Chim xoe tròn mắt biếc giữa trời xanh”. Tôi không cho rằng cả khổ thơ thứ 2 và 3 đều hoàn mỹ. Nhưng rất nhiều cảm xúc tươi xanh, óng nuột. Có những câu thơ hay như “rễ non khẽ trườn mình trong rét giá”, “trang sách đồng hiện bao dòng chữ lạ”. Lâu nay ta quen với cách viết “trang sách đời”. Mấy ai viết “trang sách đồng” như Ngọc Lê Ninh. Tuy nhiên đến khổ 4 và 5 thì không có gì đặc biệt khi Ngọc Lê Ninh viết theo kỹ thật “Như mắt em mắt mùa xuân sâu thẳm”. Tôi cũng thích bài Gió xuân vì khi đọc tự nhiên thấy mình được hòa vào một thế giới thanh sạch, trinh nguyên đối chọi với thế giới thực xô bồ, ồn ào, bụi bặm, hỗn mang thường nhật “ Ơ kìa! Gió đã về/ Mân mê chùm khế ngọt/ Líu lo ngàn chim hót/ Nhảy nhót mừng xuân sang/Nặng trĩu cành táo vàng/ Rộn ràng tia nắng ấm/ Mưa cười rơi lấm tấm/ Đậu trên đầu muôn nơi (...)/ Xuân bay theo lời ca/ Đến nhà nhà gõ cửa/ Bao người dậy nhóm lửa/Cùng gió xuân bập bùng/ Xuân vác cuốc ra đồng/ Đậu trên lưng mẹ cấy/ Mạ xuân cười run rẩy/ Chấm xuống bùn xôn xao”. Theo quan điểm/phương pháp “phê bình sinh thái” (ecocriticism) thì, Ngọc Lê Ninh có công kéo con người về gần bà mẹ tự nhiên vĩ đại khi mà con người thời hiện đại đang ngày một kém dần trí thông minh, trở chứng tấn công vào tự nhiên. Cảm hứng vũ trụ trong bài thơ Lời ru vũ trụ đã chứng minh bình phẩm của tôi về thơ Ngọc Lê Ninh. Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hước, lay động tâm tư con người ở hạ giới “Đêm nay ngồi tựa gốc đa/ Nhìn lên má chị Hằng Nga nhọ rồi/Thằng Sao Chổi cướp ngang trời/ Mẹ Ngân Hà khóc khẽ rơi giọt buồn/ Bố Trời mất việc đi luôn/ Chị Sao Thủy trốn nhà luôn chẳng về/ Em Sao Kim khóc não nề/ Đợi anh Sao Hỏa mải mê rượu chè/ Ông Sao Thổ ngã chân què/ Nằm nghe gió kể một bề tham lam/ Bà Sao Mộc quát vênh hàm/ Chỉ tay một ngón vì làm quan to/ Cô Thiên Vương đã lỡ đò/ Trái tim lạnh lẽo co ro góc trời/ Cậu Hải Vương kiện tơi bời/ Bác Diêm Vương trốn về chơi cuối đời/ Ngồi nghe vũ trụ bao lời/Vọng về Trái Đất cùng tôi chợt buồn”. Đây là một bản “hợp xướng” trong thơ. Tuy bề ngoài là viết về thiên nhiên tạo vật nhưng bên trong là nói về nhân tình thế thái. Đúng thôi. “Thơ nào cũng là thơ thời sự” (Gớt). Nhưng tôi muốn nói đến bộ “xiêm áo” tác giả khoác cho thơ, trong trường hợp này, thật đắc sách, đắt giá, đắt hàng.

Sở dĩ tôi đặt tên bài viết là Những quả thơ của Ngọc Lê Ninh, vì tôi và nhiều người thích bài Quả thơ. Ai đó nói ngây thơ rằng đây là thơ viết cho thiếu nhi (!?). Thế thì chả nhẽ phim hoạt hình chỉ dành cho thiếu nhi? Cơn cớ vì sao người lớn trên hành tinh này vẫn cứ mê xem Hãy đợi đấy của Nga, Tom và Jery của Mỹ,...Tôi muốn nói đến sự quan sát tỷ mỉ, đã đành, nhưng cao hơn là tinh tế về tự nhiên tạo vật “Vườn thu thủ thỉ tiếng thơ/ Ả Na nghếch mắt lẳng lơ nhìn đời/ Hồng em má dậy bồi hồi/Mấy cậu Ổi chín đứng ngồi chẳng yên/Thị buồn vàng nhạt cái duyên/Xác xơ phận Mít truân chuyên trái mùa/ Đầu sư Bòng, Bưởi lên chùa/ Trách đời nhạt nhẽo ông Dừa thở than/Úp mặt vào đất Dưa van/ Lũ Chôm Chôm vểnh cong hàm vuốt râu/Sầu riêng khóc với duyên đầu/ Xoài treo kỷ niệm ngả màu vàng thu/ Thanh Long mặt giận đỏ lừ/ Hồng xiêm kén mãi bây chừ theo ai/Vải, Nhãn giả bộ mình nghèo/Nhà Doi ọp ẹp vắng teo suốt ngày/ Uy quyền Phật Thủ chỉ tay/Quýt, Cam mặt nạc, đóm dày sợ ai/An thân Đu Đủ ngủ dài/ Chua ngoa Chanh, Khế ra oai mắng chồng/Hận đời Dứa láo mắt trừng/ Bọn Nho giàu sụ dửng dưng  với người/ Nhe răng Lựu ôm bụng cười/ Vợ chồng nhà Chuối đẻ mười nải con/ Vườn thu ăm ắp trăng tròn/ Bảy mâm quả kể cỏn con chuyện đời”.Tôi buộc lòng phải ghi lại cả bài thơ, cũng biết sẽ làm mất thì giờ  của quý độc giả. Thậm chí có người còn nói là tôi câu giờ. Đành lòng vậy cầm lòng vậy. Quả thơ quả nhiên là một “cẩm nang tự nhiên” về bốn mùa hoa trái trên đất Việt. Bài thơ này có thể, theo tôi, đưa vào SGK cấp Tiểu học. Tôi có quan tâm đến lĩnh vực này, nhưng chưa thấy có bài thơ nào viết cho trẻ nhỏ theo kiểu này.

Nếu so với Quả thơ mang phong vị dân gian, như là một thứ “đồng dao hiện đại” thì Áo thu rơi có hương vị của thơ lãng mạn thời tiền chiến “Gió bất chợt luồn tay vào khóm lá/Chim giật mình ngơ ngác mắt màu thu/ Mây sà xuống đồi non hôn hối hả/ Áo thu rơi bờ cỏ đẫm sương mù/Nghe tí tách xôn xao dòng suối chảy/ Đã vươn mình lừng lững vút trời cao/ Run trời đất trộn hòa nhau hết thảy/Mưa bay bay hương thơm tỏa ngọt ngào”.Tôi nghĩ, đọc thơ Ngọc Lê Ninh ở “kênh” 3 này, độc giả sẽ được “thanh tẩy” tâm hồn. Sẽ được hướng thiện, hướng mỹ, hướng chân. Sẽ được tăng cường mỹ cảm, tăng sức đề kháng bằng liệu pháp tinh thần để chống đỡ nạn ô nhiễn văn hóa. Nhiều người nói đúng “Việt Nam đang là một bãi rác của thế giới, trong đó rác thải văn hóa là nặng nề nhất, đáng lo âu nhất”.

3. Vĩ thanh về Quả thơ của Ngọc Lê Ninh. Có thể tác giả không “sướng” khi tôi chỉ viết về “kênh” 3, chú trọng tới bà mẹ tự nhiên vĩ đại. Ô hay! Đó là đặc sắc của tập thơ thứ 3 của Ngọc Lê Ninh. Những phương diện thành công khác thì đã có người khác viết tận tình, tỷ mỉ rồi. Với lại như các cụ nói chỉ có đúng “văn mình vợ người” (!?). Chỉ mong khi tập thơ thứ tư ra đời, tôi lại tiếp tục được viết phê bình thơ Ngọc Lê Ninh. Tại sao không (?!)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm