TIN TỨC

Thơ thẩn Hoàng Liên…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-02-18 21:58:59
mail facebook google pos stwis
1602 lượt xem

NGUYÊN AN

Thường thì mỗi khi đặt chân đến một vùng đất lạ, sau các buổi/ giờ làm việc, tôi thường hay lẩn bứt ra mà lang thang một mình, với xe ôm, xe kéo, đi bộ, lại xe ngựa, xe bò, xe trâu, xe đạp… họa hoằn, cũng mượn được ô tô hay xe máy… Dần dần, tôi nhận ra rằng: Ở đâu đâu trên quê hương Việt Nam ta cũng có những truyền thuyết và huyền thoại, chuyện ma chuyện tiên, chuyện dị nhân rồi chuyện giao tranh… nhưng chuyện đánh cướp đánh giặc giữ mường bản, bảo vệ ruộng vườn, thì có lẽ, nhiều hơn cả, vẫn là ở các miền quê nghèo biên viễn và ở mấy tỉnh miền Trung nước ta. Ở những nơi này, dường như ngọn núi nào, khu rừng nào, con suối con sông nào cũng gợi cho bao nhiêu thế hệ người kể chuyện dân gian, nẩy ra cảm hứng và ý tứ mà rủ rỉ với con cháu muôn đời…

Tôi đến Đền Ken ở xã Chiềng Ken, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, một sáng mùa Đông có nắng mà gió vẫn lạnh. Thơ thẩn trong và ngoài khu di tích hơn 1 ha trên đỉnh núi Pù Đình - nơi đền Ken ngự, nhìn ra bốn phương tám hướng xung quanh, trầm lắng với tán cây và gốc cây sui của Đền, nghe lao xao có tiếng chào tiếng mời, rồi như chìm dần với tâm tưởng.

 Đền Ken là nơi ghi công hai cha con Nguyễn Đình Thu và Nguyễn Đình Long - những hậu duệ của các tướng lĩnh Tây Sơn dạt bước lên vùng sơn cước heo hút này. Cùng với các hào kiệt người Thái, người Tày, người Mông bản địa, các ông đã đánh thắng, đánh bạt giặc Vàng phương Bắc xâm lấn nhiều lần. Rồi có một trận kịch chiến nổ ra, Nguyễn Đình Thu tử trận.

Nhưng sao nơi này chỉ thờ Nguyễn Đình Long, không như ở đền thờ Cương Quốc công Nguyễn Xí - Thủy tổ dòng họ Nguyễn Đình ở xứ Nghệ, lại còn thờ cả phụ mẫu và anh trai của Ngài? Dân gian, vâng, lại là dân gian - dân thường vẫn có ít lời thì thào rằng: Cụ Thu cũng can trường lắm, công to lắm… Nhưng Cụ cũng có hồi đã hà khắc với binh sĩ, dân chúng… Vậy thôi, không dám vân vi nữa.

Tâm thức dân gian mách kể lại rằng: Cạnh khu Đền Ken, còn có dấu tích quân doanh, ngai vàng của một ông vua người Thái Đen, vốn cũng là trẻ trâu ở đất rừng Chiềng Ken này, tên là Chà Liều. Ấu thơ, bé Chà Liều cũng thông minh dĩnh ngộ như nhiều anh hùng áo vải nước ta. Lớn lên, chàng Chà Liều xưng vua, các bạn trẻ hồi nào thành tướng sĩ. Họ đã đánh giặc ngoại bang, đánh bọn cướp bảo vệ bản làng. Vua Đại Việt cảm mến, vua Chà Liều nơi phiên dậu quốc gia, đã tác thành cho Chà Liều với con gái yêu của một vị tướng. Chà Liều xứng đáng thế và tiếp tục giữ yên bờ cõi Đại Việt ở nơi phiên ải. Nhưng cái chết của ông lại thật bi thương và đáng ngờ: người làm ông chết và tuyệt tự, lại chính là vợ hai của ông. Ai dựng ra kịch bản này? Sự bí ẩn và thương đau lại cũng vẫn rì rầm trong tiếng đất, trong tiếng vi vút của ngàn lau trắng Pù Đình, Chiềng Ken, Văn Bàn… và dường như đã lan ra suốt dãy biên thùy của hệ Hoàng Liên Sơn hùng vĩ nữa rồi. Được tắm mình trong nắng mùa Đông mà vàng tươi như mật ong đầu Xuân, ta như nghe được thật rõ lời Người muôn năm trước, rằng: Đã thấm nhuần một tình yêu xứ sở, đã can trường đảm lược trong chiến chinh, xin đừng để tình riêng cao hơn nợ nước để đến nỗi sa cơ.

Xin đừng vội trách người xưa sao lại hay kể chuyện oái oăm. Đôi khi, lại lầm lẫn gì đây mà pha chuyện người này với đấng quân vương nọ. Hay là các trí thức bình dân chưa qua trường Tổng trường Phủ đã mượn cái vẻ mù mờ cho dễ bàn quốc sự quốc gia? Ta nghe nữa và đọc thêm, thì nhận ra từ những lời rì rầm của tiếng đất như Nguyễn Đình Thi từng viết, hoặc lắm khi, lại đa thanh đa giọng điệu như Nguyễn Du kể chuyện Thúy Kiều, rồi lại thăm thẳm u buồn như Bà Huyện Thanh Quan kể và tả người kiếm củi một chiều mưa rét ở Đèo Ngang thủa nào…, ta sẽ thấy sáng rõ dần đôi lời quả quyết thẳng căng của nhân dân, ví dụ:

Thương dân, dân lập đền thờ

Hại dân, dân đái ngập mồ

thối xương!

Cái sự quyết liệt này không biết đã thành lời nguyền từ bao giờ, nhưng chợt nhớ lại Thầy đồ Nguyễn Đình Chiểu khi kể chuyện Lục Vân Tiên bằng thơ lục bát, rồi viết Văn tế các nghĩa sĩ đánh giặc Tây xâm lăng mà như Hịch cho muôn người ra trận từ tâm nguyện “bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”… thì mới có thể thấm thía hơn mấy câu người Việt ở Nam Trung Bộ từng bần thần lúc đọc cho mình, cho con cháu nghe vào đêm hè hay dưới trăng thu:

Chiều chiều én liệng Truông Mây

Cảm thương chú Lía bị vây

trong thành

với cả mấy câu này nữa, ở đâu ta? Miền Trung hay Tây Nam Bộ, hay là trích từ khúc giã bạn của Kinh Bắc mà sửa đi đôi chữ đây, là cái câu, cái ý, cái tâm trạng rành là Việt này:

Rồi mùa toóc rã, rơm khô

Bậu về quê bậu, biết nơi mô mà tìm?

thật là nao lòng và thao thiết

biết bao nhiêu.

Có người hỏi: Văn chương dân gian Việt vậy, mà sao cộng đồng dân tộc Việt Nam, dù là nhánh nhỏ như các tộc người ở vùng cao, nhánh vừa vừa như Mường, Thái, Khme… cho đến Kinh, đều cương cường khí khái, quật khởi và đại nghĩa đến thế!

Tôi thì muốn cho rằng: Khi ta thấm thía đến tận cùng sát đáy những đớn đau vì bị ức hiếp, lừa gạt và đói nghèo rồi, thì cũng là lúc, hơn nhiều tộc người khác, người Việt ở muôn nơi đã tự đủ chín về tư tưởng và đạo lý rồi truyền cho nhau những ước vọng lớn lao mà cụ thể, những mong cho đời mình rồi đời con cháu mình ngày một khấm khá hơn, có tư thế thực sự giữa đất trời vốn không của riêng ai này.

Trong cuộc trường chinh cần lao mấy ngàn năm nay, người Việt ở vùng cao dưới dãy Hoàng Liên Sơn đã thích thú như người Việt  ở mọi vùng xuôi khi đọc cho nhau nghe (cũng với giọng thì thầm thôi), câu này:

Ước gì sông rộng tày gang

Bắc cầu giải yếm cho chàng

sang chơi.

Tôi đã gặp, đã nghe ở Đền Ken, ở quán cà phê gần cầu Cốc Lếu, ở Hội Lim Bắc Ninh mấy câu này nữa:

Cô kia cắt cỏ một mình

Cho anh cắt với, chung tình làm đôi

Cô còn cắt nữa hay thôi

Cho anh cắt với, làm đôi vợ chồng.

*

Hôm ấy một ông hưu trí ở Mương Khương kể: đồn biên phòng Pha Long có nhiều anh bộ đội bám dân bản, thuộc đường biên còn hơn nhiều cán bộ khác, thế mà chưa biết tại sao vùng này là trung tâm vận chuyển ma túy liên quốc gia, mà con nghiện hầu như không có ai. Phải điều nghiên bằng nhiều cách, thì hiểu ra: các ông trùm ma túy thường phạt nặng, thậm chí là thủ tiêu người trong đường dây nếu biết họ đã hút hít, vì hút hít, sẽ làm mất tập trung.

Có người cho hay, ông hưu trí này có nhiều thành tích, công lao, mà chỉ được bằng khen, không/ chưa được phong anh hùng như lớp đàn em. Hỏi vậy là sao? Ông cười khơ khơ, thay câu trả lời, là câu: Có năm, tôi đi dự các đại hội, các lễ mừng đến 7 lần, hết hơn 7 tháng lương, mang về được 7 bộ ấm chén làm quà tặng vợ con…

Hôm khác, lại được mấy anh công an ở các xã giáp biên cho hay: dịp này đang lo xuống bản làm Căn cước công dân vào các buổi tối, vì ban ngày bà con đi làm cả. Đi bằng gì? Đi bộ, đi xe máy. Xa không? Dạ, cũng trên dưới 10 cây số, vâng, đi mất gần một giờ, về cũng thế. Về chắc ngủ tít, nhỉ? Nhiều hôm chưa kịp ăn uống gì, lại phải lên đường ngay vì được báo có F0 đang ở đâu đấy phải tìm, vì có đám trai trẻ uống rượu đánh nhau, vì có tai nạn đâm xe đổ máu bên đường vừa xuống bản…

Nhà văn Công Thế kể: dưới lưng chừng đèo Khan Co, phía Nam hệ núi Hoàng Liên, có bản Tu Thượng, Khoảng 300 năm trước người Mông từ bên kia biên giới trôi dạt sang đất ta, ngụ cư ở Tu Thượng. Bởi núi rừng hiểm trở, bởi ngại ngùng mặc cảm bị xua đuổi như hồi ở bên kia, mấy gia đình người Mông này sống khép kín, ẩn dật, rồi sinh ra nạn quần hôn, con cháu các đời sau trở nên thấp bé. Quan đồn Pháp gọi họ là bà con xa của người Nhật.

Một lần kia, nghe báo là nhóm người Mông xanh này bắt được thú quý hiếm, lính Tây leo núi tìm đến, đòi nộp thú quý. Bà con nói thác ra là đói quá, phải làm thịt đứa bé ốm không thể nuôi chữa được. Lính Tây không tin, tự mở vung nồi, trong mờ mịt hơi và khói, thấy có bàn tay bé nhỏ thật, cả bọn quày quả đi ra. Từ đó, xóm nhỏ Mông xanh này mang thêm tiếng: Mông xanh ăn thịt người! Họ càng bị xa lánh thêm.

Mãi sau 1945, rồi đến cuộc kháng chiến chống Pháp, cán bộ ta đến nằm vùng giác ngộ bà con, thì mới rõ: Năm xưa ấy, bà con bắt được một con căng (thuộc loài khỉ), thì nấu cháo ăn thôi.

Mấy chục năm nay thì khác xưa lắm rồi. Người Mông xanh được chính quyền các cấp động viên, giúp đỡ, nên đã phá bỏ tục quần hôn. Mới gặp, ta thấy bà con có trang phục và ngữ âm na ná người Nhật thủa trước, nhưng vóc dáng đã như Kinh như Thái như Tày. Ông Vàng A Dính khi là Chủ tịch Hội Nông dân xã Nậm Xé từng nói: Chúng tôi đã là người Việt Nam, người Mông ở đây và ở khắp dãy Hoàng Liên Sơn, khắp cả tận Thanh Hóa, Nghệ An… đã đi bộ đội, làm cán bộ, làm công an lâu nay rồi.

Đã bắt đầu có hoa đào ở Sapa, ở Bát Xát, ở Bảo Thắng, ở Bảo Hà… Nghe nói từ các nơi ấy, và cả từ Si Ma Cai, Y Tý, Tả Gia Khâu… Tết cũng đang mon men đến rồi. Tết vùng biên trong mùa chống giặc Covid, thì cũng cần gọn ghẽ thôi, tôi nghe nhiều người ở thành phố Lào Cai nói thế.

Trong rực rỡ đèn đêm, tự nhiên nhớ Bản Phố năm nào. Bản Phố, phải rồi, Bản Phố với thơ Đoàn Hữu Nam: Rượu rót bát tràn bát/ Mắt rót tràn trong mắt/ Tình say đến ngu ngơ… rồi nhớ sang Tô Hoài, ông cụ cười móm mén tinh quái: Cái anh không uống được rượu mới làm thơ rượu hay được. Đúng thế đấy. Nhấp môi thôi, uống như người biết uống thì thấy được gì mà làm thơ cho hay nữa.

Nguồn Văn nghệ số Xuân 2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm
Tổ quốc trên hết
Tùy bút của Đại tá, nhà thơ TRẦN THẾ TUYỂN
Xem thêm
Xứ nhãn du ký – Bài viết của Phan Anh
Theo con đường trên mặt đê phía tả ngạn sông Hồng chúng tôi xuôi về phố Hiến để đến với vùng đất nổi tiếng một thời của xứ đàng ngoài mà từng được người đời truyền tụng là tiểu Tràng An và đi liền cùng với câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Xem thêm
Bữa cơm ân tình giữa lòng thủ đô
Trong khuôn khổ chuyến đi về thủ đô tham dự Kỉ niệm 8 năm thành lập và sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 của CỘNG ĐỒNG TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM, rất nhiều sự kiện đã diễn ra và đều vô cùng ý nghĩa, trong đó có sự kiện Hoàng Xuân được ăn bữa cơm thân mật cùng với Giáo sư, Anh hùng Lao động, Nhà khoa học Nguyễn Anh Trí.
Xem thêm
Đêm thơ “tứ thuỷ” – Ký của Trần Thế Tuyển
Đại tá, nhà thơ Trần Thế Tuyển vừa gửi qua Zalo cho Văn chương TP.HCM bài viết nóng hổi về Đêm thơ “Tứ Thuỷ” diễn ra ở Tuy Hoà tối 17/8/2025.
Xem thêm
Nhớ mãi Bác cả Trọng
Vẫn biết đó là quy luật muôn đời của tạo hoá, nhưng khi nghe tin “Bác cả Trọng” – Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân về với tổ tiên, chúng tôi không khỏi bàng hoàng…
Xem thêm
Cầu siêu giữa đại ngàn
Bài viết dưới đây của Đại tá nhà văn Trần Thế Tuyển ghi lại những cảm xúc sâu lắng của một người lính già tại lễ cầu siêu đặc biệt giữa đại ngàn Trường Sơn, nơi hội tụ nghĩa tình đồng đội và lòng tri ân sâu sắc.
Xem thêm
Miền ký ức giữa rừng đước Cần Giờ
Hướng tới ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết của nhà văn Đậu Thanh Sơn về vùng đất Cần Giờ – nơi từng là căn cứ địa của Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác.
Xem thêm
Cua và tôm - Tản văn Trần Thế Tuyển
Bây giờ theo sắp xếp địa danh mới, gọi chung là lục tỉnh Miền Tây. Trước khi sáp nhập, chúng tôi có chuyến hành hương cửu tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và ngộ ra nhiều điều – mừng có, lo có!
Xem thêm
Tản mạn “Đêm trừ tịch”
Tản văn của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Gặp gỡ Trường Sa – yêu hơn Tổ quốc mình
Một hành trình giàu cảm xúc của nhà báo nhà văn Phương Huyền
Xem thêm
Không thể - Trần Thế Tuyển
Không thể – một khúc nhớ lặng lẽ nhưng chan chứa yêu thương và tri ân của Đại tá, nhà báo Trần Thế Tuyển dành cho Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng
Xem thêm
Ngòi bút thi sĩ giữ lửa nghề báo: Một trăm năm mãi xanh
Chuyên mục Tiếng nói nhà văn của báo Văn nghệ, số 25, ngày 21/6/2025
Xem thêm