TIN TỨC

Những vần thơ nẩy mầm đơm hoa theo dấu chân nhà thơ khoát áo lính

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
527 lượt xem

       Việt Thắng

Tôi cầm trong tay tập thơ “Quang Chuyền thơ và đời” và điện thoại hỏi anh: “Đây có phải là tuyển tập thơ không anh”?  Anh cười: “Cũng là gom các bài thơ viết cả đời lại thành một tập, vì mình nay cũng đã tới ngưỡng tuổi 80 rồi”. Cắm cúi đọc hết tập thơ,tôi mới hiểu ra đây gần như là tập nhật ký bằng thơ của nhà thơ Quang Chuyền.

Tôi biết nhà thơ Quang Chuyền cũng hơn mười năm; Anh sinh ra tại một làng quê tỉnh Vĩnh Phúc, nên những vần thơ của anh mang dấu ấn làng quê:

           Phía sau bờ tre là làng

           Là cha, là mẹ, họ hàng anh em

             (Phía sau bờ tre)

 

Dù sau này do cuộc sống mà anh phải ly hương nhưng nỗi lòng nhớ quê vẫn đau đáu:

          Quê nhà mỗi lúc khác quê

           Chờ con vuông đất, bờ tre, xóm giềng.

              ( Nhà mẹ có con đi xa)

 

        Đất mẹ đôi bờ nghèo ngô lúa

       Ước làm con sóng chở phù sa

              ( Đêm ngủ ven sông)

 

 Và chính nhà thơ cũng tự khắc họa mình:

        Ta là một gã nhà quê

        Bước đời không định lạc về phố đông

        Bữa ăn thường thích cua đồng

        Dưa chua, tương mặn, cải ngồng bãi Soi.

                    ( Tự họa)

 

  Vì chiến tranh mà nhà thơ phải rời bục giảng khoác áo lính ngành thông tin; và từ đây mỗi chặng đường đi qua trong chiến tranh anh đều có những bài thơ:

           Sương như khói vạt cỏ tranh đẫm ướt

          Lạnh đi ra từ ruột đất A So...

              ( Buổi sáng ở A So)

 

          Con đường mòn dốc ngược

         Ấy con đường hành quân.

            ( Điệp khúc hành quân đường núi)

 

    Đời lính trong chiến tranh thì gian nan vất vả, đói khát, sốt rét rừng… Nhưng Quang Chuyền vẫn có những vần thơ lạc quan:

            Ở hang sốt rét rụng tóc đầu

            Da xanh mà chả xanh xao nụ cười.

                     (Thơ viết ở rừng).

 

  Không ít những bài thơ anh nói về ngành thông tin:

          Lối mòn vào tổng đài

          Em khuất vào trong đá.

            ( Hoa trên vách đá).

 

          Đường dây vi vu về nơi đâu

         Vọng tiếng dây đi có tiếng gà nao nức

               (Tiếng gà trên trọng điểm)

 

   Dẫu trong gian khổ, chết chóc thơ anh vẫn lóe lên tình yêu mơ mộng:

          Cái khoảng xa kỳ diệu

          Cho chúng mình gặp nhau...

          Sao bàn tay lặng thinh

          Khi chúng mình giáp mặt?

              ( Tiếng nói bàn tay)

 

  Khi đất nước đã im tiếng súng, Quang Chuyền không ít lần đi tìm đồng đội đã hy sinh:

           Ở đây chôn dấu tháng ngày

           Chân dầm trong nước, mây bay trắng đầu

           Ở đây vùi lấp niềm đau

           Xác người, xác đất trong nhau ngập chìm.

               ( Tìm trong rừng đước)

 

     Trong cuộc sống vì công việc, mỗi lần anh tới đâu đều để lại những bài thơ:

                    Đi qua hai phía lở bồi

                 Tôi về tìm lại bóng người bên sông.

                    ( Bóng người bên sông)

 

      Vốn dĩ được sinh ra từ vùng quê Bắc Bộ; nên ngay từ thuở còn nằm trong nôi Quang Chuyền đã được nghe bà, hoặc mẹ... hát ru, phần nhiều những bài hát ru đều mang thể loại dân ca bằng vần điệu lục bát. Có lẽ vì vậy mà những vần thơ lục bát đã ngấm sâu vào tiềm thức của Quang Chuyền, vì vậy trong tập thơ này có nhiều bài thơ thể lục bát đã đi vào lòng người đọc:

   Viết về người mẹ của liệt sĩ, Quang Chuyền có những vần thơ như cháy lòng:

                    Mẹ ngừng nhai nửa miếng trầu

                   Lặng nhìn tấm ảnh nửa màu phôi phai

                   Thương con lòng mẹ chia hai

                    Nửa sau khung cửa, nửa ngoài mái hiên...

                    Nửa đêm nghe gió trở mùa

                   Nhớ, thương hai nửa lạnh lùa vào tim...

                              ( Nửa trời trăng khuyết)

 

        Trong hoàn cảnh nào những vần thơ lục của anh cũng vẫn mềm mại:

                  Con tàu vẫn chạy vòng quanh

                  Vòng quanh vẫn thấy viền xanh chân trời...

                         (Từ ô cửa sổ tàu đang chạy)

 

                  Xa kia có cánh đồng vàng/

                 Con cò vỗ cánh bay ngang chân trời...

                            ( Phía sau bờ tre)

 

                Nhà ta nửa lệch, nửa bằng

                Nắng chếch nửa sáng, sương giăng nửa chiều

                Cây nhang cháy nửa liêu xiêu

               Tóc em nửa bạc bởi nhiều buồn đau...

                         ( Nửa vầng trăng khuyết)

 

   Bước sang tuổi đã lên hàng ông bà, nhà thơ đã không khỏi ngỡ ngàng khi nhớ về người yêu cũ:

              Thuyền ai đậu ở bến này

              Người xưa chèo lái đưa ngày qua sông...

              Tôi tìm bến cũ người không

               Chỉ nghe sóng vỗ phập phồng bãi xa.

                          ( Bến xưa)

 

                Nụ hôn một nửa lên tàu

                Nửa rơi xuống chỗ bắt đầu chia xa...

                Hôm nay nơi ấy có người

                Qua ga bất chợt để rơi bóng mình.

                             ( Sân ga cuối)

 

   Nhưng người đọc phải ngỡ ngàng khi đọc bài lục bát bốn câu của nhà thơ Quang Chuyền đã ngoại lục tuần, về tính lãng mạn và si mê:

            Thà rằng lụt biển, lũ sông

            Sa chân lỡ bước...chết trong nổi chìm

            Ơ hay cái lúm đồng tiền

            Bé tí bé tẹo cũng dìm chết nhau.

               (Cái lúm đồng tiền - 2009)

 

  Khi tuổi đã xé chiếu nhà thơ vẫn mượn những vần lục bát tâm sự của riêng mình; nhưng câu thơ ít nhiều cũng vương vất trong tâm người đọc:

              Tìm vui trong nỗi thiệt thòi

               Học trăng năm tháng lẻ loi chẳng buồn...

               Sống đời người sợ điều chi

               Sợ ngày sợ tháng trôi đi nhạt nhòa...

 

    Con người không làm sao tránh khỏi quy luật: Sinh - lão - bệnh - tử, nhà thơ đã nhắc nhở mình và người đời:

                Người về đâu? Ta về đâu?

                Rồi ra chung một sắc màu cỏ xanh.

 

      Nhìn chung thơ Quang Chuyền phong phú về đề tài; những bước chân anh đi qua đều để lại dấu ấn bằng thơ. Tập thơ này gần như là cuốn nhật ký về thơ của một nhà thơ khoác áo lính. Từ ngữ trong thơ cũng dung dị, tinh tế, đằm thắm như tấm lòng của anh;  mang nhiều hoài niệm cảm xúc về quê hương, cha mẹ, đồng đội… ngôn từ không gồ ghề, gai góc. Hy vọng rằng dù ít nhiều cũng sẽ có những vần thơ còn lưu lại trong lòng người đọc.

                                         Sài Gòn cuối thu 2023.

V.T

         

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Những nẻo đường sáng tạo thơ ở một số thi sĩ Việt Nam nổi tiếng thời hiện đại”
Nhà phê bình văn học là người có tâm hồn giao cảm mãnh liệt với từng lời văn, con chữ và những giai điệu du dương của thơ ca. Họ đã có những cảm nghiệm sâu sắc giữa thơ văn và đời mình. Với họ, mỗi tác phẩm văn học không chỉ là một tư tưởng cần được khám phá mà còn là một thế giới sống động, nơi những dòng chữ biết thủ thỉ cùng tâm hồn.
Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm