TIN TỨC

Những vần thơ nẩy mầm đơm hoa theo dấu chân nhà thơ khoát áo lính

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-11 17:22:11
mail facebook google pos stwis
1152 lượt xem

       Việt Thắng

Tôi cầm trong tay tập thơ “Quang Chuyền thơ và đời” và điện thoại hỏi anh: “Đây có phải là tuyển tập thơ không anh”?  Anh cười: “Cũng là gom các bài thơ viết cả đời lại thành một tập, vì mình nay cũng đã tới ngưỡng tuổi 80 rồi”. Cắm cúi đọc hết tập thơ,tôi mới hiểu ra đây gần như là tập nhật ký bằng thơ của nhà thơ Quang Chuyền.

Tôi biết nhà thơ Quang Chuyền cũng hơn mười năm; Anh sinh ra tại một làng quê tỉnh Vĩnh Phúc, nên những vần thơ của anh mang dấu ấn làng quê:

           Phía sau bờ tre là làng

           Là cha, là mẹ, họ hàng anh em

             (Phía sau bờ tre)

 

Dù sau này do cuộc sống mà anh phải ly hương nhưng nỗi lòng nhớ quê vẫn đau đáu:

          Quê nhà mỗi lúc khác quê

           Chờ con vuông đất, bờ tre, xóm giềng.

              ( Nhà mẹ có con đi xa)

 

        Đất mẹ đôi bờ nghèo ngô lúa

       Ước làm con sóng chở phù sa

              ( Đêm ngủ ven sông)

 

 Và chính nhà thơ cũng tự khắc họa mình:

        Ta là một gã nhà quê

        Bước đời không định lạc về phố đông

        Bữa ăn thường thích cua đồng

        Dưa chua, tương mặn, cải ngồng bãi Soi.

                    ( Tự họa)

 

  Vì chiến tranh mà nhà thơ phải rời bục giảng khoác áo lính ngành thông tin; và từ đây mỗi chặng đường đi qua trong chiến tranh anh đều có những bài thơ:

           Sương như khói vạt cỏ tranh đẫm ướt

          Lạnh đi ra từ ruột đất A So...

              ( Buổi sáng ở A So)

 

          Con đường mòn dốc ngược

         Ấy con đường hành quân.

            ( Điệp khúc hành quân đường núi)

 

    Đời lính trong chiến tranh thì gian nan vất vả, đói khát, sốt rét rừng… Nhưng Quang Chuyền vẫn có những vần thơ lạc quan:

            Ở hang sốt rét rụng tóc đầu

            Da xanh mà chả xanh xao nụ cười.

                     (Thơ viết ở rừng).

 

  Không ít những bài thơ anh nói về ngành thông tin:

          Lối mòn vào tổng đài

          Em khuất vào trong đá.

            ( Hoa trên vách đá).

 

          Đường dây vi vu về nơi đâu

         Vọng tiếng dây đi có tiếng gà nao nức

               (Tiếng gà trên trọng điểm)

 

   Dẫu trong gian khổ, chết chóc thơ anh vẫn lóe lên tình yêu mơ mộng:

          Cái khoảng xa kỳ diệu

          Cho chúng mình gặp nhau...

          Sao bàn tay lặng thinh

          Khi chúng mình giáp mặt?

              ( Tiếng nói bàn tay)

 

  Khi đất nước đã im tiếng súng, Quang Chuyền không ít lần đi tìm đồng đội đã hy sinh:

           Ở đây chôn dấu tháng ngày

           Chân dầm trong nước, mây bay trắng đầu

           Ở đây vùi lấp niềm đau

           Xác người, xác đất trong nhau ngập chìm.

               ( Tìm trong rừng đước)

 

     Trong cuộc sống vì công việc, mỗi lần anh tới đâu đều để lại những bài thơ:

                    Đi qua hai phía lở bồi

                 Tôi về tìm lại bóng người bên sông.

                    ( Bóng người bên sông)

 

      Vốn dĩ được sinh ra từ vùng quê Bắc Bộ; nên ngay từ thuở còn nằm trong nôi Quang Chuyền đã được nghe bà, hoặc mẹ... hát ru, phần nhiều những bài hát ru đều mang thể loại dân ca bằng vần điệu lục bát. Có lẽ vì vậy mà những vần thơ lục bát đã ngấm sâu vào tiềm thức của Quang Chuyền, vì vậy trong tập thơ này có nhiều bài thơ thể lục bát đã đi vào lòng người đọc:

   Viết về người mẹ của liệt sĩ, Quang Chuyền có những vần thơ như cháy lòng:

                    Mẹ ngừng nhai nửa miếng trầu

                   Lặng nhìn tấm ảnh nửa màu phôi phai

                   Thương con lòng mẹ chia hai

                    Nửa sau khung cửa, nửa ngoài mái hiên...

                    Nửa đêm nghe gió trở mùa

                   Nhớ, thương hai nửa lạnh lùa vào tim...

                              ( Nửa trời trăng khuyết)

 

        Trong hoàn cảnh nào những vần thơ lục của anh cũng vẫn mềm mại:

                  Con tàu vẫn chạy vòng quanh

                  Vòng quanh vẫn thấy viền xanh chân trời...

                         (Từ ô cửa sổ tàu đang chạy)

 

                  Xa kia có cánh đồng vàng/

                 Con cò vỗ cánh bay ngang chân trời...

                            ( Phía sau bờ tre)

 

                Nhà ta nửa lệch, nửa bằng

                Nắng chếch nửa sáng, sương giăng nửa chiều

                Cây nhang cháy nửa liêu xiêu

               Tóc em nửa bạc bởi nhiều buồn đau...

                         ( Nửa vầng trăng khuyết)

 

   Bước sang tuổi đã lên hàng ông bà, nhà thơ đã không khỏi ngỡ ngàng khi nhớ về người yêu cũ:

              Thuyền ai đậu ở bến này

              Người xưa chèo lái đưa ngày qua sông...

              Tôi tìm bến cũ người không

               Chỉ nghe sóng vỗ phập phồng bãi xa.

                          ( Bến xưa)

 

                Nụ hôn một nửa lên tàu

                Nửa rơi xuống chỗ bắt đầu chia xa...

                Hôm nay nơi ấy có người

                Qua ga bất chợt để rơi bóng mình.

                             ( Sân ga cuối)

 

   Nhưng người đọc phải ngỡ ngàng khi đọc bài lục bát bốn câu của nhà thơ Quang Chuyền đã ngoại lục tuần, về tính lãng mạn và si mê:

            Thà rằng lụt biển, lũ sông

            Sa chân lỡ bước...chết trong nổi chìm

            Ơ hay cái lúm đồng tiền

            Bé tí bé tẹo cũng dìm chết nhau.

               (Cái lúm đồng tiền - 2009)

 

  Khi tuổi đã xé chiếu nhà thơ vẫn mượn những vần lục bát tâm sự của riêng mình; nhưng câu thơ ít nhiều cũng vương vất trong tâm người đọc:

              Tìm vui trong nỗi thiệt thòi

               Học trăng năm tháng lẻ loi chẳng buồn...

               Sống đời người sợ điều chi

               Sợ ngày sợ tháng trôi đi nhạt nhòa...

 

    Con người không làm sao tránh khỏi quy luật: Sinh - lão - bệnh - tử, nhà thơ đã nhắc nhở mình và người đời:

                Người về đâu? Ta về đâu?

                Rồi ra chung một sắc màu cỏ xanh.

 

      Nhìn chung thơ Quang Chuyền phong phú về đề tài; những bước chân anh đi qua đều để lại dấu ấn bằng thơ. Tập thơ này gần như là cuốn nhật ký về thơ của một nhà thơ khoác áo lính. Từ ngữ trong thơ cũng dung dị, tinh tế, đằm thắm như tấm lòng của anh;  mang nhiều hoài niệm cảm xúc về quê hương, cha mẹ, đồng đội… ngôn từ không gồ ghề, gai góc. Hy vọng rằng dù ít nhiều cũng sẽ có những vần thơ còn lưu lại trong lòng người đọc.

                                         Sài Gòn cuối thu 2023.

V.T

         

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm