TIN TỨC

Phảng phất Thiền trong “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-07 21:28:22
mail facebook google pos stwis
846 lượt xem

NGÔ MINH OANH
(Bài viết đọc tại buổi ra mắt “Lục bát chân mây”


PGS-TS, nhà thơ Ngô Minh Oanh.
 

Với hơn 80 bài thơ trong Lục bát chân mây – tập thơ thứ 7 của nhà thơ Võ Miên Trường, nếu tính từ khi chị in tập thơ đầu tiên (2016) đến nay cũng đã non một thập kỷ, và nếu tính từ khi chị bắt đầu làm thơ thì thời gian còn nhiều hơn nữa. Đọc xong tập thơ, tôi cứ bị ám ảnh bởi hình ảnh một người đàn bà thơ đã “hoàng hôn chín”, đang sắp xếp “xây (lại) từng nấc tháp ngà” của đời mình, muốn “trả đêm thăm thẳm cuộc trần gian mơ” để ước ao “cho tôi đáo hạn về chăm chút mình.”

Không chỉ riêng nhà thơ Võ Miên Trường, mà ai trong chúng ta cũng vậy, trên dặm trường làm người lữ khách, bươn chãi với mưu sinh, làm tròn chức phận người con, người vợ, người mẹ, người công dân… lại đa đoan làm một người thơ luôn khắc khoỏi với con đường đi không hồi kết. Trên đường đời, đường thơ đó ai dám chắc mình không bao giờ mỏi mệt, ai dám chắc không có lúc ta cảm thấy cô đơn giữa cuộc đời đầy sôi động và phải đi tìm một chỗ dựa tinh thần, tìm về một chốn tĩnh lặng, an yên để tiếp tục sống và viết. Phải chăng vì điều đó mà ta đã gặp trong nhiều bài thơ của Lục bát chân mây phảng phất chất thiền, đầy ắp những ước muốn đượm thiền trong từng bài, từng câu, từng chữ. Có thể nói trong mỗi con người Việt chúng ta, một đất nước cởi mở về tôn giáo, “tam giáo đồng hành” là một nét nổi bật trong tư tưởng, quan niệm và nếp sống. Dù có thể khác nhau về tôn giáo, nhưng ở một nước mà Phật giáo đã du nhập vào từ lâu đời và có ảnh hưởng rộng khắp vào các vùng miền và trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thì trong mỗi người chúng ta ít nhiều đều có một ít “tâm Phật” trong cuộc sống hàng ngày. Điều này cũng là hiển nhiên khi thiền như là một phương pháp luyện tâm trí, tập trung vào sự vật, sự việc, vấn đề hiện tại, giúp người thực hành sống trọn vẹn hơn, hướng tới sự bình an, thuần khiết trong bản thân mình… Thiền như là một chánh định để loại bỏ tham, sân, si, trở về với cuộc sống thanh tịnh.

Đọc thơ Võ Miên Trường chúng ta không khỏi bùi ngùi về những nỗi vất vả, truân chuyên của chị: “…Những năm khốn khó đói mòn dạ đau/ Nhớ ngày ở cữ cháo rau/Xép re bụng rỗng cuống nhau mẹ gầy/ Quắt khô bầu vú thở dài/ Nước cơm thay sữa mỗi ngày con ơi/ Từng đêm vỡ giấc ru hời” (Lục bát cho con). Nhưng nào đâu chỉ sự khốn khó về thể xác, phải chăng: “Ta từ hạt bụi phiêu bồng/ Ngàn xưa không sắc-sắc không mơ màng/ Nỗi chìm tro bụi lang thang/ Luân hồi trổ nhánh đa đoan lẽ thường.” (Ta về gặt nốt cánh đồng đời phơi). Phải chăng chị đã ý thức được luân hồi từ tiền kiếp mà chấp nhận một cuộc đời đầy sự “vỡ”. Trong thơ chị sao nhiều sự vỡ làm vậy: Vỡ ngọn heo may/ Vỡ biếc/ Vỡ vạt cúc quỳ/ Vỡ mảnh trăng đau/ Vỡ tiếng nghe rằm gọi trăng/ Vỡ cuộc rập rình vỡ tôi…” (Vỡ tôi, Đêm suông). Người thơ đã dựa vào điểm tựa nào mà vượt qua bao sự vỡ làm vậy, để mà an nhiên sống, để mà an nhiên viết nên những vần lục bát tài hoa trong Lục bát chân mây? Không phải tất cả, nhưng có một điểm tựa để người thơ Võ Miên Trường dựa vào, đó là thiền, thiền định. Đâu phải ngẫu nhiên, đôi khi người thơ vẫn “còn say khúc nhạc chơi vơi/ Còn hơn thua với sao trời vu vơ” nhưng ngay đó đã thay đổi về nhận thức: “Đi về chung cuộc hành hương/ Hoa đăng soi nghiệp còn vương niệm tình/ Bàn tay lần giọt trang kinh/ Nhập nhòe chân - giả vô minh thế trần/ Thấy gì qua cửa phù vân/ Bao nhiêu hạt bụi mê lầm mênh mông/ Ngộ câu “tức sắc thị không”/ Ta về gặt nốt cánh đồng đời phơi…” (Cánh đồng đời phơi). Cánh đồng đời phơi đó hay nói rộng hơn là cuộc đời này mà chị đã gắn bó, nhập cuộc dẫu bao gian khó chị vẫn đắm đuối hoàn thành trọn vẹn những thiên chức của mình. Và đây nữa, giữa gió, mây vẫn ngập tràn hoa nắng: “này mây, này gió, này mình/ Giọt trăng mưa móc chút tình như nhiên/ Thoảng qua nhau giữa sông thiền/ Lung linh hoa nắng thắp miền chiêm bao.” (Dấu chấm than). Phải chăng chất thiền đã đắm chìm trong tâm tưởng, trong từng chiêm nghiệm về cuộc đời, trong những cảm thức về sáng tạo thi ca, mà Võ Miên Trường sau bao nhiêu đoạn trường đã trải, bao vỡ vụn, thăng trầm “tuổi xế” mà vẫn an nhiên vui sống, hát ca bằng những vần thơ. Chị đã viết: “Dõi chừng tuổi xế chiều hôm/ Tâm bình thân tịnh nhẹ đơm gốc thiền/ Cây đời trổ nhánh như nhiên/ Lá từ bi hát lời thiêng từng ngày.” (Em và tuổi xế nương nhau); hay “Níu ngày trải lục bát phơi/ Nghe chuông vọng khúc à ơi…tím chiều.” (Lục bát dạ thưa); “Gọi nhau gió lộng cửa thiền/ Gọi hồn nhiên giấu muộn phiền đằng Đông/ Chiều nay gió ngát hương thiền/ Em dìu kỷ niệm về miền yêu thương.” (Gấp đôi nỗi nhớ).

Muộn phiền đã trải, người thơ đã “ngộ” ra cuộc đời này như là duyên kiếp, đã sống trọn cùng “hạt bụi” của nhân duyên để vẫn hết mình vui sống, hoan ca. Không chỉ an nhiên vui sống, chị còn đưa ra một tuyên ngôn về cuộc sống: “Ta về theo gió rong chơi/ Thấy bồ đề giữa chợ đời vô minh/ Về gom nỗi nhớ lên chùa/ Bàn tay đảnh lễ xin chừa sân, si ”. Và hơn nữa, người thơ thấm đẫm tâm thiền vẫn tràn luôn đầy hy vọng giữa cuộc đời rộng lớn và vô minh này: “Chung trà rót tạ tri âm/ Áo nâu sòng mặc chờ tâm Niết bàn.” 
 

Vài khoảnh khắc tại buổi ra mắt sách "Lục bát chân mây" (Ảnh Nguyên Hùng):

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm