TIN TỨC

Phảng phất Thiền trong “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-07 21:32:37
mail facebook google pos stwis
202 lượt xem

NGÔ MINH OANH
(Bài viết đọc tại buổi ra mắt “Lục bát chân mây”


PGS-TS, nhà thơ Ngô Minh Oanh.
 

Với hơn 80 bài thơ trong Lục bát chân mây – tập thơ thứ 7 của nhà thơ Võ Miên Trường, nếu tính từ khi chị in tập thơ đầu tiên (2016) đến nay cũng đã non một thập kỷ, và nếu tính từ khi chị bắt đầu làm thơ thì thời gian còn nhiều hơn nữa. Đọc xong tập thơ, tôi cứ bị ám ảnh bởi hình ảnh một người đàn bà thơ đã “hoàng hôn chín”, đang sắp xếp “xây (lại) từng nấc tháp ngà” của đời mình, muốn “trả đêm thăm thẳm cuộc trần gian mơ” để ước ao “cho tôi đáo hạn về chăm chút mình.”

Không chỉ riêng nhà thơ Võ Miên Trường, mà ai trong chúng ta cũng vậy, trên dặm trường làm người lữ khách, bươn chãi với mưu sinh, làm tròn chức phận người con, người vợ, người mẹ, người công dân… lại đa đoan làm một người thơ luôn khắc khoỏi với con đường đi không hồi kết. Trên đường đời, đường thơ đó ai dám chắc mình không bao giờ mỏi mệt, ai dám chắc không có lúc ta cảm thấy cô đơn giữa cuộc đời đầy sôi động và phải đi tìm một chỗ dựa tinh thần, tìm về một chốn tĩnh lặng, an yên để tiếp tục sống và viết. Phải chăng vì điều đó mà ta đã gặp trong nhiều bài thơ của Lục bát chân mây phảng phất chất thiền, đầy ắp những ước muốn đượm thiền trong từng bài, từng câu, từng chữ. Có thể nói trong mỗi con người Việt chúng ta, một đất nước cởi mở về tôn giáo, “tam giáo đồng hành” là một nét nổi bật trong tư tưởng, quan niệm và nếp sống. Dù có thể khác nhau về tôn giáo, nhưng ở một nước mà Phật giáo đã du nhập vào từ lâu đời và có ảnh hưởng rộng khắp vào các vùng miền và trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, thì trong mỗi người chúng ta ít nhiều đều có một ít “tâm Phật” trong cuộc sống hàng ngày. Điều này cũng là hiển nhiên khi thiền như là một phương pháp luyện tâm trí, tập trung vào sự vật, sự việc, vấn đề hiện tại, giúp người thực hành sống trọn vẹn hơn, hướng tới sự bình an, thuần khiết trong bản thân mình… Thiền như là một chánh định để loại bỏ tham, sân, si, trở về với cuộc sống thanh tịnh.

Đọc thơ Võ Miên Trường chúng ta không khỏi bùi ngùi về những nỗi vất vả, truân chuyên của chị: “…Những năm khốn khó đói mòn dạ đau/ Nhớ ngày ở cữ cháo rau/Xép re bụng rỗng cuống nhau mẹ gầy/ Quắt khô bầu vú thở dài/ Nước cơm thay sữa mỗi ngày con ơi/ Từng đêm vỡ giấc ru hời” (Lục bát cho con). Nhưng nào đâu chỉ sự khốn khó về thể xác, phải chăng: “Ta từ hạt bụi phiêu bồng/ Ngàn xưa không sắc-sắc không mơ màng/ Nỗi chìm tro bụi lang thang/ Luân hồi trổ nhánh đa đoan lẽ thường.” (Ta về gặt nốt cánh đồng đời phơi). Phải chăng chị đã ý thức được luân hồi từ tiền kiếp mà chấp nhận một cuộc đời đầy sự “vỡ”. Trong thơ chị sao nhiều sự vỡ làm vậy: Vỡ ngọn heo may/ Vỡ biếc/ Vỡ vạt cúc quỳ/ Vỡ mảnh trăng đau/ Vỡ tiếng nghe rằm gọi trăng/ Vỡ cuộc rập rình vỡ tôi…” (Vỡ tôi, Đêm suông). Người thơ đã dựa vào điểm tựa nào mà vượt qua bao sự vỡ làm vậy, để mà an nhiên sống, để mà an nhiên viết nên những vần lục bát tài hoa trong Lục bát chân mây? Không phải tất cả, nhưng có một điểm tựa để người thơ Võ Miên Trường dựa vào, đó là thiền, thiền định. Đâu phải ngẫu nhiên, đôi khi người thơ vẫn “còn say khúc nhạc chơi vơi/ Còn hơn thua với sao trời vu vơ” nhưng ngay đó đã thay đổi về nhận thức: “Đi về chung cuộc hành hương/ Hoa đăng soi nghiệp còn vương niệm tình/ Bàn tay lần giọt trang kinh/ Nhập nhòe chân - giả vô minh thế trần/ Thấy gì qua cửa phù vân/ Bao nhiêu hạt bụi mê lầm mênh mông/ Ngộ câu “tức sắc thị không”/ Ta về gặt nốt cánh đồng đời phơi…” (Cánh đồng đời phơi). Cánh đồng đời phơi đó hay nói rộng hơn là cuộc đời này mà chị đã gắn bó, nhập cuộc dẫu bao gian khó chị vẫn đắm đuối hoàn thành trọn vẹn những thiên chức của mình. Và đây nữa, giữa gió, mây vẫn ngập tràn hoa nắng: “này mây, này gió, này mình/ Giọt trăng mưa móc chút tình như nhiên/ Thoảng qua nhau giữa sông thiền/ Lung linh hoa nắng thắp miền chiêm bao.” (Dấu chấm than). Phải chăng chất thiền đã đắm chìm trong tâm tưởng, trong từng chiêm nghiệm về cuộc đời, trong những cảm thức về sáng tạo thi ca, mà Võ Miên Trường sau bao nhiêu đoạn trường đã trải, bao vỡ vụn, thăng trầm “tuổi xế” mà vẫn an nhiên vui sống, hát ca bằng những vần thơ. Chị đã viết: “Dõi chừng tuổi xế chiều hôm/ Tâm bình thân tịnh nhẹ đơm gốc thiền/ Cây đời trổ nhánh như nhiên/ Lá từ bi hát lời thiêng từng ngày.” (Em và tuổi xế nương nhau); hay “Níu ngày trải lục bát phơi/ Nghe chuông vọng khúc à ơi…tím chiều.” (Lục bát dạ thưa); “Gọi nhau gió lộng cửa thiền/ Gọi hồn nhiên giấu muộn phiền đằng Đông/ Chiều nay gió ngát hương thiền/ Em dìu kỷ niệm về miền yêu thương.” (Gấp đôi nỗi nhớ).

Muộn phiền đã trải, người thơ đã “ngộ” ra cuộc đời này như là duyên kiếp, đã sống trọn cùng “hạt bụi” của nhân duyên để vẫn hết mình vui sống, hoan ca. Không chỉ an nhiên vui sống, chị còn đưa ra một tuyên ngôn về cuộc sống: “Ta về theo gió rong chơi/ Thấy bồ đề giữa chợ đời vô minh/ Về gom nỗi nhớ lên chùa/ Bàn tay đảnh lễ xin chừa sân, si ”. Và hơn nữa, người thơ thấm đẫm tâm thiền vẫn tràn luôn đầy hy vọng giữa cuộc đời rộng lớn và vô minh này: “Chung trà rót tạ tri âm/ Áo nâu sòng mặc chờ tâm Niết bàn.” 
 

Vài khoảnh khắc tại buổi ra mắt sách "Lục bát chân mây" (Ảnh Nguyên Hùng):

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm
“Lời của gió” - Lời của nước mắt, nụ cười
Tôi may mắn được người anh, người đồng nghiệp quý mến - Nhà thơ, Nhà báo Trần Thế Tuyển gửi bản thảo trường ca “Lời của gió” với tin nhắn giản dị, mộc mạc “Gửi chú đọc và thẩm cho anh”. Đọc thì đương nhiên rồi, nhưng không dám “thẩm”. Mấy lời sau đây tôi viết với tư cách là bạn đọc, là người em của Nhà thơ Trần Thế Tuyển.
Xem thêm
Không gian thiền tịnh và buông xả trong thơ Nguyễn Thị Sơn
Chùm thơ 4 bài: Thiền, Tịnh, Buông, Nhàn của nhà thơ Nguyễn Thị Sơn đã khái quát một không gian thơ mang tính tâm linh cho riêng mình, ở đó mỗi bài đều chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc về tâm trạng và trải nghiệm của con người. Những bài thơ này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Mỗi bài thơ là một khía cạnh khác nhau của sự tìm kiếm sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.
Xem thêm
Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”
Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .
Xem thêm
Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà
Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật
Xem thêm