TIN TỨC

Sắc màu mưa Huế

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-12-29 05:46:34
mail facebook google pos stwis
6589 lượt xem

 HUỲNH VĂN HOA

Huế là xứ sở của những cơn mưa. Và, mưa cũng làm nên nét đặc trưng của Huế. Ai từng đến Huế, ở Huế, đều biết mưa Huế. Huế có những ngày mưa ào đổ, giống như phương nam. Có khi là cơn mưa tầm tã, nhà và phố ngập chìm trong nước. Cảnh vật Huế có thể thay đổi, song, có một cái không thay đổi, nếu phải thay đổi, thì không còn là Huế, đó là mưa.

Mưa Huế không giống mưa Hà Nội. Mưa Huế không giống mưa Sài Gòn. Nghĩa là mưa Huế rất Huế. Nỗi niềm chi rứa về Huế, trước hết là nỗi niềm về những cơn mưa Huế. Tố Hữu trong Nước non nghìn dặm, nhớ Huế là nhớ mưa:

Nỗi niềm chi rứa Huế ơi

Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên

Nguyễn Bính, những ngày tháng tha hương, đến Huế, ở xóm Ngự viên, đã viết Trời mưa ở Huế (1941), thốt lên: "Trời mưa ở Huế sao buồn thế ! / Cứ kéo dài ra đến mấy ngày". Điệp khúc này lặp lại đến 4 lần, khắc sâu thêm đến mưa Huế buồn, mưa Huế dài.

Và, điều nữa, điều mà mọi miền khác không thấy, chính là mưa Huế có màu, có sắc. Màu sắc ấy chính là sự khuếch tán ánh sáng theo quy luật vật lý, tạo nên nét riêng về mưa Huế. Nói như giáo sư Lê Bá Thảo, người con của Huế, đó là Nhịp điệu đặc sắc của tự nhiên (Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục,1977, trang14). Đặc điểm địa lý tự nhiên này vừa đa dạng, vừa tương phản, vì thế, đã làm nên một sắc thái của Huế.

Người nhận ra sắc màu của những cơn mưa Huế là Phương Xích lô. Phương Xích Lô tên thật là Nguyễn Văn Phương, sinh 1951 tại Thừa Thiên - Huế, làm thơ và đăng trên nhiều báo, mất vào năm 2002 tại Quảng Trị. Ngày trước, ở Huế, nhắc Nguyễn Văn Phương, ít người biết đến, nhưng Phương Xích Lô thì trong giới hành nghề xích lô, giới văn nghệ sĩ đều biết. Đó là gã làm thơ tự nhận đệ tử Bùi Giáng.

Một bài thơ của Phương Xích Lô được nhiều người yêu thích, bài  Bảy màu mưa Huế:

Anh dắt em về cơn mưa đầu hạ

Mưa đỏ bên đường hay ánh phượng soi?

Tóc em ướt mềm như từng ngọn lá

Chiếc nón bài thơ em để mô rồ ?

 

Anh dắt em về ngang qua cầu mới

Mưa đen trên trời, mưa tím dưới sông

Áo trắng em chừ như tranh lập thể

Ai đã tô lên những mảng mây hồng?

 

Anh dắt em về ngang qua Đại Nội

Con đường tình yêu chạy dọc Hoàng thành

Những đám rêu xưa giật mình tỉnh giấc

Đắm hồn mình trong những giọt mưa xanh

 

Anh dắt em về nhà xưa vườn cũ

Những đóa mưa vàng lấp lánh trên hoa

Chia tay trước nhà em vào với mạ

Riêng anh lang thang mưa trắng nhạt nhòa

Bài thơ có 4 khổ, 16 câu. Khổ nào cũng có màu và bắt đầu từ "Anh dắt em về". Mỗi lần "dắt em về" là mỗi lần mưa Huế thay màu. Bài thơ nói bằng giọng Huế, đúng kiểu Huế. Huế không nói "đưa" mà là "dắt". Dắt qua những ngã đường xanh lá, những cảnh trí xưa cũ, rồi chia tay, em vào nhà với mạ.

Bắt đầu từ cơn mưa đầu hạ:

Anh dắt em về cơn mưa đầu hạ

Mưa đỏ bên đường hay ánh phượng soi ?

Tóc em ướt mềm như từng ngọn lá

Chiếc nón bài thơ em để mô rồi ?

Hạ về. Ở Huế, có những con đường hoặc một góc phố, vào hè, phượng thắm đỏ, rực rỡ. Một màu đỏ khó quên của  huyết phượng, đỏ cả một cung đường, một góc phố, một khoảng trời. Vào hè, nhiều cây ra hoa như bằng lăng, điệp vàng, muồng hoàng yến, song, với Huế, phượng vẫn là gam màu nổi bật nhất. Thêm cơn mưa, mưa rơi trên những cánh phượng, mưa ánh lên sắc đỏ giữa bầu trời, khiến sợi mưa lung linh kỳ ảo. Chiếc nón bài thơ em để mô rồi, không che cơn mưa hay chỉ là một câu hỏi tình tứ khi nhìn những sợi tóc mềm, mềm như từng ngọn lá của em. Chao ôi "mô rồi", thương quá cái giọng Huế trữ tình!

Khổ thứ hai, chỗ lạ của những câu thơ này, đó là sự pha màu của thi sĩ - họa sĩ. Bắc qua sông Hương, có nhiều cầu. Cầu mới, cầu Phú Xuân, cây cầu nối hai bờ, hai khu vực sinh hoạt của nội thị, nhà thơ đã nhìn từ xa đến gần, màu sắc đan xen nhau:

Anh dắt em về ngang qua cầu mới

Mưa đen trên trời, mưa tím dưới sông

Áo trắng em chừ như tranh lập thể

Ai đã tô lên những mảng mây hồng ?

Lần này, Anh dắt em về ngang qua cầu mới, màu đen của những đám mây vần vũ trên trời và màu tím ở dưới sông. Một sự tương phản. Màu tím của bầu trời hay màu tím của những chiếc áo dài thướt tha trên những con thuyền qua lại trên sông. Không rõ. Song, có điều chắc chắn là, tím, một-màu-riêng của Huế. Sắc Tím Huế, một nét dịu dàng, đằm thắm, một ám ảnh khôn nguôi, một khung trời thương nhớ, một sâu kín, lắng trầm, một sắc lạnh ngẩn ngơ ... tạo hóa ban cho Huế và những người con gái Huế. Nói đến Huế, không thể không nói đến màu tím. Điều đặc biệt của khổ thơ là nhà thơ nói đến bức tranh lập thể, sao vậy ? Chúng ta biết, tác phẩm của họa sĩ lập thể, các bề mặt của mặt phẳng giao nhau không theo quy tắc phối cảnh, vì thế, tính đồng hiện làm cho bức tranh có chiều sâu. Ở đó, người họa sĩ nhìn hiện thực theo hướng tập hợp, chia thành các mặt khác nhau, các góc cạnh khác nhau. Khổ thơ là sự hòa điệu của các màu: đen, tím, trắnghồng, làm nên một bức họa về thiên nhiên, đa sắc, vắt qua cây cầu và dòng sông. Đấy chính là bức tranh lập thể về Huế.

Đến khổ thứ ba, khi qua Đại Nội, khi dọc Hoàng thành, nhà thơ mới nói đến "con đường tình yêu". Hoàng thành nằm giữa thiên nhiên, nối nhau với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, những hàng cây lưu niên, những mái ngói lưu ly, ... tạo nên một màu xanh ngút mắt, dịu dàng, cổ kính nằm dưới bầu trời, tất cả như bừng tỉnh, sau bao lớp rêu phong hưng phế, thức dậy, cùng với mưa xanh, đã đánh đắm tâm hồn của những người đang yêu. Trong Đại Nội, cây cỏ hoàng cung chỉ xanh và xanh, màu chủ đạo này là nét đáng yêu của Huế:         

Anh dắt em về ngang qua Đại Nội

Con đường tình yêu chạy dọc Hoàng thành

Những đám rêu xưa giật mình tỉnh giấc

Đắm hồn mình trong những giọt mưa xanh

Khổ thơ cuối, cả hai dắt nhau về nhà xưa vườn cũ. Ta lại gặp nét riêng của Huế. Vườn Huế. Không gian Huế là không gian vườn, nhà Huế là nhà-vườn. Người Huế gắn với vườn. Vườn Huế là nơi trú ngụ, nơi gửi gắm khát vọng giao hòa giữa con người và tự nhiên. Vườn Huế là bài thơ đồng nội, gần gũi, thơm thảo, đôn hậu của một đời người, một bóng mát đi về, nương náu của bao tâm hồn xa xứ. Nơi bài thơ, nhà xưa vườn cũ, một tiếng nói của thương yêu.

Lại thêm, những đóa hoa vàng ánh sắc trong mưa, khiến các câu thơ lấp lánh, mới mẻ. Thương hơn, đó là, em vào với mạ, còn anh, với mây trắng nhạt nhòa, lang thang tiếp trên những nẻo đường của tình yêu:

 Anh dắt em về nhà xưa vườn cũ

Những đóa mưa vàng lấp lánh trên hoa

Chia tay trước nhà em vào với mạ

Riêng anh lang thang mưa trắng nhạt nhòa

*

Phương Xích Lô là người đưa màu sắc của những cơn mưa Huế vào thơ, thi vị hóa những sợi mưa Huế một cách độc đáo, khiến bao người mãi nhớ, mãi yêu. Chiếc xích lô ba bánh, bốn mùa mưa nắng, qua những nẻo đường phố Huế, đã gửi lại cho đời một bài thơ hay và lạ. Một bản tổng phổ về sắc màu của những cơn mưa Huế, về mối quan hệ đằm sâu giữa con người và cảnh sắc quanh ta, thiên nhiên gần gũi, trở thành một nơi chốn đi về, náu đậu của tâm hồn bao thế hệ yêu Huế.      

Nhớ Huế, nhớ mưa là nhớ Bảy màu mưa Huế của một nhà thơ hết đỗi mến thương, có tên dân dã: Phương Xích Lô.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm