TIN TỨC

Sắc màu mưa Huế

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-12-29 05:48:44
mail facebook google pos stwis
4499 lượt xem

 HUỲNH VĂN HOA

Huế là xứ sở của những cơn mưa. Và, mưa cũng làm nên nét đặc trưng của Huế. Ai từng đến Huế, ở Huế, đều biết mưa Huế. Huế có những ngày mưa ào đổ, giống như phương nam. Có khi là cơn mưa tầm tã, nhà và phố ngập chìm trong nước. Cảnh vật Huế có thể thay đổi, song, có một cái không thay đổi, nếu phải thay đổi, thì không còn là Huế, đó là mưa.

Mưa Huế không giống mưa Hà Nội. Mưa Huế không giống mưa Sài Gòn. Nghĩa là mưa Huế rất Huế. Nỗi niềm chi rứa về Huế, trước hết là nỗi niềm về những cơn mưa Huế. Tố Hữu trong Nước non nghìn dặm, nhớ Huế là nhớ mưa:

Nỗi niềm chi rứa Huế ơi

Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên

Nguyễn Bính, những ngày tháng tha hương, đến Huế, ở xóm Ngự viên, đã viết Trời mưa ở Huế (1941), thốt lên: "Trời mưa ở Huế sao buồn thế ! / Cứ kéo dài ra đến mấy ngày". Điệp khúc này lặp lại đến 4 lần, khắc sâu thêm đến mưa Huế buồn, mưa Huế dài.

Và, điều nữa, điều mà mọi miền khác không thấy, chính là mưa Huế có màu, có sắc. Màu sắc ấy chính là sự khuếch tán ánh sáng theo quy luật vật lý, tạo nên nét riêng về mưa Huế. Nói như giáo sư Lê Bá Thảo, người con của Huế, đó là Nhịp điệu đặc sắc của tự nhiên (Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo dục,1977, trang14). Đặc điểm địa lý tự nhiên này vừa đa dạng, vừa tương phản, vì thế, đã làm nên một sắc thái của Huế.

Người nhận ra sắc màu của những cơn mưa Huế là Phương Xích lô. Phương Xích Lô tên thật là Nguyễn Văn Phương, sinh 1951 tại Thừa Thiên - Huế, làm thơ và đăng trên nhiều báo, mất vào năm 2002 tại Quảng Trị. Ngày trước, ở Huế, nhắc Nguyễn Văn Phương, ít người biết đến, nhưng Phương Xích Lô thì trong giới hành nghề xích lô, giới văn nghệ sĩ đều biết. Đó là gã làm thơ tự nhận đệ tử Bùi Giáng.

Một bài thơ của Phương Xích Lô được nhiều người yêu thích, bài  Bảy màu mưa Huế:

Anh dắt em về cơn mưa đầu hạ

Mưa đỏ bên đường hay ánh phượng soi?

Tóc em ướt mềm như từng ngọn lá

Chiếc nón bài thơ em để mô rồ ?

 

Anh dắt em về ngang qua cầu mới

Mưa đen trên trời, mưa tím dưới sông

Áo trắng em chừ như tranh lập thể

Ai đã tô lên những mảng mây hồng?

 

Anh dắt em về ngang qua Đại Nội

Con đường tình yêu chạy dọc Hoàng thành

Những đám rêu xưa giật mình tỉnh giấc

Đắm hồn mình trong những giọt mưa xanh

 

Anh dắt em về nhà xưa vườn cũ

Những đóa mưa vàng lấp lánh trên hoa

Chia tay trước nhà em vào với mạ

Riêng anh lang thang mưa trắng nhạt nhòa

Bài thơ có 4 khổ, 16 câu. Khổ nào cũng có màu và bắt đầu từ "Anh dắt em về". Mỗi lần "dắt em về" là mỗi lần mưa Huế thay màu. Bài thơ nói bằng giọng Huế, đúng kiểu Huế. Huế không nói "đưa" mà là "dắt". Dắt qua những ngã đường xanh lá, những cảnh trí xưa cũ, rồi chia tay, em vào nhà với mạ.

Bắt đầu từ cơn mưa đầu hạ:

Anh dắt em về cơn mưa đầu hạ

Mưa đỏ bên đường hay ánh phượng soi ?

Tóc em ướt mềm như từng ngọn lá

Chiếc nón bài thơ em để mô rồi ?

Hạ về. Ở Huế, có những con đường hoặc một góc phố, vào hè, phượng thắm đỏ, rực rỡ. Một màu đỏ khó quên của  huyết phượng, đỏ cả một cung đường, một góc phố, một khoảng trời. Vào hè, nhiều cây ra hoa như bằng lăng, điệp vàng, muồng hoàng yến, song, với Huế, phượng vẫn là gam màu nổi bật nhất. Thêm cơn mưa, mưa rơi trên những cánh phượng, mưa ánh lên sắc đỏ giữa bầu trời, khiến sợi mưa lung linh kỳ ảo. Chiếc nón bài thơ em để mô rồi, không che cơn mưa hay chỉ là một câu hỏi tình tứ khi nhìn những sợi tóc mềm, mềm như từng ngọn lá của em. Chao ôi "mô rồi", thương quá cái giọng Huế trữ tình!

Khổ thứ hai, chỗ lạ của những câu thơ này, đó là sự pha màu của thi sĩ - họa sĩ. Bắc qua sông Hương, có nhiều cầu. Cầu mới, cầu Phú Xuân, cây cầu nối hai bờ, hai khu vực sinh hoạt của nội thị, nhà thơ đã nhìn từ xa đến gần, màu sắc đan xen nhau:

Anh dắt em về ngang qua cầu mới

Mưa đen trên trời, mưa tím dưới sông

Áo trắng em chừ như tranh lập thể

Ai đã tô lên những mảng mây hồng ?

Lần này, Anh dắt em về ngang qua cầu mới, màu đen của những đám mây vần vũ trên trời và màu tím ở dưới sông. Một sự tương phản. Màu tím của bầu trời hay màu tím của những chiếc áo dài thướt tha trên những con thuyền qua lại trên sông. Không rõ. Song, có điều chắc chắn là, tím, một-màu-riêng của Huế. Sắc Tím Huế, một nét dịu dàng, đằm thắm, một ám ảnh khôn nguôi, một khung trời thương nhớ, một sâu kín, lắng trầm, một sắc lạnh ngẩn ngơ ... tạo hóa ban cho Huế và những người con gái Huế. Nói đến Huế, không thể không nói đến màu tím. Điều đặc biệt của khổ thơ là nhà thơ nói đến bức tranh lập thể, sao vậy ? Chúng ta biết, tác phẩm của họa sĩ lập thể, các bề mặt của mặt phẳng giao nhau không theo quy tắc phối cảnh, vì thế, tính đồng hiện làm cho bức tranh có chiều sâu. Ở đó, người họa sĩ nhìn hiện thực theo hướng tập hợp, chia thành các mặt khác nhau, các góc cạnh khác nhau. Khổ thơ là sự hòa điệu của các màu: đen, tím, trắnghồng, làm nên một bức họa về thiên nhiên, đa sắc, vắt qua cây cầu và dòng sông. Đấy chính là bức tranh lập thể về Huế.

Đến khổ thứ ba, khi qua Đại Nội, khi dọc Hoàng thành, nhà thơ mới nói đến "con đường tình yêu". Hoàng thành nằm giữa thiên nhiên, nối nhau với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, những hàng cây lưu niên, những mái ngói lưu ly, ... tạo nên một màu xanh ngút mắt, dịu dàng, cổ kính nằm dưới bầu trời, tất cả như bừng tỉnh, sau bao lớp rêu phong hưng phế, thức dậy, cùng với mưa xanh, đã đánh đắm tâm hồn của những người đang yêu. Trong Đại Nội, cây cỏ hoàng cung chỉ xanh và xanh, màu chủ đạo này là nét đáng yêu của Huế:         

Anh dắt em về ngang qua Đại Nội

Con đường tình yêu chạy dọc Hoàng thành

Những đám rêu xưa giật mình tỉnh giấc

Đắm hồn mình trong những giọt mưa xanh

Khổ thơ cuối, cả hai dắt nhau về nhà xưa vườn cũ. Ta lại gặp nét riêng của Huế. Vườn Huế. Không gian Huế là không gian vườn, nhà Huế là nhà-vườn. Người Huế gắn với vườn. Vườn Huế là nơi trú ngụ, nơi gửi gắm khát vọng giao hòa giữa con người và tự nhiên. Vườn Huế là bài thơ đồng nội, gần gũi, thơm thảo, đôn hậu của một đời người, một bóng mát đi về, nương náu của bao tâm hồn xa xứ. Nơi bài thơ, nhà xưa vườn cũ, một tiếng nói của thương yêu.

Lại thêm, những đóa hoa vàng ánh sắc trong mưa, khiến các câu thơ lấp lánh, mới mẻ. Thương hơn, đó là, em vào với mạ, còn anh, với mây trắng nhạt nhòa, lang thang tiếp trên những nẻo đường của tình yêu:

 Anh dắt em về nhà xưa vườn cũ

Những đóa mưa vàng lấp lánh trên hoa

Chia tay trước nhà em vào với mạ

Riêng anh lang thang mưa trắng nhạt nhòa

*

Phương Xích Lô là người đưa màu sắc của những cơn mưa Huế vào thơ, thi vị hóa những sợi mưa Huế một cách độc đáo, khiến bao người mãi nhớ, mãi yêu. Chiếc xích lô ba bánh, bốn mùa mưa nắng, qua những nẻo đường phố Huế, đã gửi lại cho đời một bài thơ hay và lạ. Một bản tổng phổ về sắc màu của những cơn mưa Huế, về mối quan hệ đằm sâu giữa con người và cảnh sắc quanh ta, thiên nhiên gần gũi, trở thành một nơi chốn đi về, náu đậu của tâm hồn bao thế hệ yêu Huế.      

Nhớ Huế, nhớ mưa là nhớ Bảy màu mưa Huế của một nhà thơ hết đỗi mến thương, có tên dân dã: Phương Xích Lô.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm
Nguyễn Ngọc Hạnh - Hồn thơ reo mãi phía làng
Bài viết của Hoàng Thụy Anh và phóng sự ảnh của Nguyên Hùng
Xem thêm
‘Bút chiến’ thời Tự Lực Văn Đoàn
Trước khi được giải Lý luận phê bình của Hội Nhà văn năm nay thì “Tự chủ văn chương và sứ mệnh tự do” đã được chú ý trong cộng đồng đọc. “Câu chuyện cũ nhưng cách tiếp cận mới, khảo tả công phu, chưa kể những dẫn chứng “đấu đá” hậu trường văn chương, đọc rất vui”, độc giả bình luận.
Xem thêm
Khối đa diện “Mộng đế vương”
Nhà văn Nguyễn Trường chọn xứ đạo ở Cồn Phụng của ông Nguyễn Thành Nam, đạo vừa vừa, gọi là Đạo Dừa
Xem thêm
Hồn quê trong một sắc thơ miệt vườn
Nhà thơ Kiên Giang (1929-2014) - đúng ra năm sinh: 1927 - tên thật Trương Khương Trinh (bút danh khác: Hà Huy Hà, Ngân Hà, Trinh Ngọc, Cửu Long Giang…, gốc người làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là Kiên Giang).
Xem thêm