TIN TỨC

Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-25 23:37:10
mail facebook google pos stwis
173 lượt xem

TRẦN NHƯ LUẬN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.

 

Nhà thơ Ngã Du Tử

CUNG NGÀ XƯA

Thơ Ngã Du Tử

 

Này em hỡi cung ngà còn vang vọng

Những âm thanh quá khứ có ươm chồi

Không mặc cả cùng tháng năm dĩ vãng

Mùa tương lai tươi lại cuộc đời ơi.

 

Nghe tiếng gọi bên kia bờ sông nhớ

Ai vô tình thả nốt nhạc tình rơi

Có tha thiết hay bâng khuâng từ đó

Tôi thương người thảng thốt một dòng trôi.

 

Cung ngà thắp cho đời thêm son phấn

Hoàng hôn còn ôm ấp dáng bình minh

Nghe trần thế bao chuyện tình chưa kể

Lòng lắng nghe ký ức gọi đời mình.

 

Và tạ lỗi một thời xuân nông nổi

Đã qua rồi miền nhớ thuở còn xanh

Một lần đến biết bao điều chiêm nghiệm

Cung ngà xưa về đậu mảnh đất lành.

(Trích từ tập thơ: Vàng Gieo Tâm Thức của Ngã Du Tử, NXB Thuận Hóa, tháng 12/2024).

Đọc Cung ngà xưa của Ngã Du Tử, tôi chợt nghe vang lên trong tâm tưởng một điệu nhạc xa xăm, vừa như từ tiếng đàn cổ, vừa như từ hồi ức của chính mình. Bài thơ khơi dậy nỗi buồn dịu dàng về thời gian, về tuổi trẻ đã qua, nhưng không chỉ để tiếc nuối, nó mở ra một hành trình chiêm nghiệm. Theo hướng Mỹ học tiếp nhận (Rezeptionsästhetik), tôi cho rằng tác phẩm này sống động ở chỗ nó không cố định một ý nghĩa duy nhất, mà mời gọi độc giả nhập cuộc, tự mang theo ký ức riêng để cùng ngân lên với “cung ngà” xưa.

Chủ đề và cảm hứng trung tâm:

Chủ đề tổng quát của bài thơ là dòng chảy thời gian và ký ức con người. Ở tầng sâu, Ngã Du Tử không chỉ hồi tưởng một thời tuổi trẻ, mà còn đặt lại câu hỏi về ý nghĩa tồn tại: điều gì còn đọng lại khi “âm thanh quá khứ” đã tàn phai? Chủ đề cụ thể là sự hoài niệm và chiêm nghiệm về tuổi xuân, được diễn tả qua biểu tượng “cung ngà”. Ở đây, “cung ngà” không chỉ gợi đến một nhạc cụ, mà còn như một chiếc cầu nối giữa quá khứ – hiện tại – tương lai. Nó vừa là âm vang, vừa là ánh sáng, vừa là “chứng nhân” cho hành trình đời người.

Nghệ thuật và nhạc tính:

Về hình thức, bài thơ sử dụng thể thơ tám chữ, bốn khổ, song nhạc điệu lại giàu chất ngân vang nhờ sự lặp lại, nhịp chậm rãi và nhiều từ láy giàu âm hưởng… Những thanh bằng – trắc được phối hợp nhịp nhàng, tạo nên âm sắc vừa tha thiết, vừa man mác.

Ngôn ngữ thơ giàu biểu tượng:

“Cung ngà” – Trung tâm của hồi ức, biểu trưng cho tiếng gọi nội tâm. “Hoàng hôn” và “bình minh” – vòng tuần hoàn thời gian, vừa gợi sự tàn phai, vừa khơi dậy một khởi đầu mới. “Tạ lỗi một thời xuân nông nổi” – không chỉ là lời thú nhận, mà còn là dấu hiệu trưởng thành trong chiêm nghiệm. Nhạc tính của bài thơ khiến độc giả không chỉ “đọc” mà còn “nghe” được. Đây chính là hiệu ứng thẩm mỹ mà lý thuyết tiếp nhận gọi là sự cộng hưởng giữa văn bản và trải nghiệm cá nhân: Mỗi người sẽ tìm thấy trong “cung ngà” của thi sĩ tiếng vọng của chính thanh xuân mình.

So sánh tương đồng:

Trong dòng thơ thế giới, tôi nhận thấy Cung ngà xưa có một sự tương đồng đáng kể với Rainer Maria Rilke (Áo, đầu thế kỷ 20), đặc biệt trong Duino Elegies. Ở Rilke, âm thanh và ký ức thường trở thành kênh giao tiếp với cõi siêu hình: tiếng gọi của thiên thần, tiếng ngân vang giữa hữu hạn và vô hạn.

Tương tự, ở Ngã Du Tử, “cung ngà” không chỉ là một âm thanh vật chất, mà là “tiếng gọi bên kia bờ sông nhớ”. Nếu Rilke đặt cái hữu hạn của đời người trong thế tương giao với cái vô tận của vũ trụ, thì nhà thơ Đất Quảng đặt tiếng vọng của quá khứ trong thế đối thoại với hiện tại và tương lai. Cả hai đều dùng âm thanh như một ẩn dụ để con người nhìn lại chính mình, và vì vậy thơ của họ mang tính “siêu cảm giác” – vượt khỏi ranh giới thời gian thông thường.

So sánh khác biệt:

Tuy nhiên, nếu so với T.S. Eliot (Anh – Mỹ, thế kỷ 20), đặc biệt trong trường ca The Waste Land, ta sẽ thấy một khác biệt cơ bản. Eliot cũng viết về ký ức, về sự hoang tàn của thời gian, nhưng ông thường đặt nó trong một bối cảnh lịch sử – văn hóa rộng lớn, với những mảnh vỡ hỗn độn của văn minh. Thơ ông có xu hướng hoài nghi, bi quan, đầy tính phân mảnh.

Ngược lại, Ngã Du Tử nhìn về quá khứ với tâm thế dịu dàng và giàu nhân bản hơn. Dẫu có “tạ lỗi một thời xuân nông nổi”, bài thơ không gợi cảm giác sụp đổ, mà hướng tới sự an ủi: “Cung ngà xưa về đậu mảnh đất lành”. Nếu Eliot để lại dư vị trống rỗng, thì Ngã Du Tử của chúng ta để lại dư vị hàn gắn. Đây là sự khác biệt căn bản: thơ Việt vẫn gắn bó thường xuyên với hồn quê, với khát vọng yên bình, ngay

cả khi hồi tưởng quá khứ.

Đối thoại với văn hóa – lịch sử Việt:

Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.

 

Bìa tập thơ Vàng gieo Tâm thức

 

Đọc bằng nhãn quan này, ta thấy Cung Ngà Xưa như một bản hòa âm của lịch sử sống: Nó cho phép người đọc từ nhiều thế hệ khác nhau nhận ra bóng dáng mình – người từng đi qua chiến tranh, kẻ từng mất mát tuổi xuân, hay cả người trẻ đang tìm cách đối diện với thời gian.

Đa tầng nghĩa trong tiếp nhận hôm nay:

Theo Mỹ học tiếp nhận, Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser –Những người đặt nền tảng ở Đức – đã nhấn mạnh rằng tác phẩm vănhọc không bao giờ là một thực thể đóng kín. Nó chỉ thực sự sống khibước vào mối quan hệ với độc giả, với “tầm đón đợi”

(Erwartungshorizont) của họ. Cung ngà xưa minh chứng điều ấy. Với người lớn tuổi, bài thơ là sự đồng vọng với chính thanh xuân họ đã bỏ lại. Với người trẻ, đó có thể là lời nhắc nhở: hãy biết lắng nghe và trân trọng hiện tại, kẻo rồi sẽ phải “tạ lỗi” cùng tuổi trẻ. Với độc giả quốc tế, đây là minh chứng cho một tinh thần Việt Nam: biết hoài niệm mà không bi lụy, biết tiếc nuối mà vẫn gìn giữ niềm tin. Chính sự đa tầng nghĩa này làm cho bài thơ mở ra nhiều con đường tiếp nhận khác nhau, và nhờ vậy, nó không bị trói buộc trong một thời điểm lịch sử duy nhất.

Kết luận:

Cung ngà xưa là một thi phẩm giàu nhạc tính, mang sắc thái hoài niệm sâu lắng, vừa chan chứa chất triết lý, vừa gợi mở tính tiếp nhận. Trong dòng chảy thơ Việt đương đại, nó có thể coi như nhịp cầu nối giữa truyền thống trữ tình với tinh thần hiện đại hóa. Nếu như Rilke cho thấy sự tương đồng ở chiều kích siêu hình của ký ức, thì so với Eliot, Ngã Du Tử lại khác biệt ở niềm tin và sự dịu dàng hướng về đời sống. Và trên hết, từ quan điểm Mỹ học tiếp nhận, bài thơ cho thấy sức mạnh của văn học: Nó không chỉ là tiếng nói cá nhân của một nhà thơ Đất Quảng, mà còn là tiếng vọng của ký ức chung – Nơi quá khứ và hiện tại giao hòa trong cung bậc tinh khôi của con người Việt.

(Viết lúc Miền Trung chuyển mùa, 2025)

T.N.L

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm