TIN TỨC

Tết Cồn Cù nhớ… lân ky!

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-02-06 19:46:14
mail facebook google pos stwis
944 lượt xem

TRẦN DŨNG

“Lân ky” không chỉ mang đến cho Cồn Cù một phong vị Tết kháng chiến độc đáo mà nó còn trở thành niềm tự hào của các thế hệ cư dân địa phương.

Xuân này theo chân mấy anh bạn cũ, tôi có dịp trở về đón Tết ở Cồn Cù sau gần ba mươi năm xa cách. Những đầu tư kết cấu hạ tầng của Nhà nước nhằm phát triển vùng kinh tế trọng điểm ven biển đã từng bước làm đổi thay diện mạo kinh tế - xã hội và đời sống người dân vùng căn cứ kháng chiến năm nào.

Chiếc cầu bê-tông vĩnh cửu thuộc loại lớn và đẹp nhất Trà Vinh, được chiếu sáng bởi hai hàng đèn cao áp, như vầng trăng non khổng lồ vắt ngang sông Long Toàn lịch sử, kéo dài Quốc lộ 53 ra tận bờ biển, nối Cồn Cù gần hơn với thị xã Duyên Hải và thành phố Trà Vinh. Sau ba nhà máy nhiệt điện, giờ những công trình điện mặt trời, điện gió hối hả mọc lên chuyển dần sang công nghệ tiên tiến của ngành năng lượng tái tạo, không gây ô nhiễm môi trường. Ngày đêm, trên Quốc lộ 53, đủ chủng loại xe cộ nối đuôi nhau vận chuyển các loại vật tư nguyên liệu ngành công nghiệp năng lượng ngược đường với hàng nông thủy sản, như vận chuyển cả niềm vui của bà con. Hai bên đường, đường dây cao thế, trung thế, hạ thế, dây điện thoại giăng ngang, mắc dọc tạo ra thế vững chãi cho bố cục của bức tranh xuân miền ven biển. Tỷ lệ nhà cơ bản, bán cơ bản lên đến hơn chín mươi phần trăm là hệ quả tất yếu của việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nghề muối truyền thống sang nuôi thủy sản và các loại dịch vụ khác. Trong dạt dào niềm vui, bên ly rượu nồng ấm nghĩa tình, câu chuyện xoay dần về với những kỷ niệm ngày xưa, vất vả cùng chiếc ky gánh muối…

Nghề muối đã làm cho đời sống người dân Cồn Cù gắn chặt với chiếc ky. Thực ra, người ta cũng không thể làm ra hột muối nếu không có chiếc xa quạt nước, chiếc trang cào… Nhưng xa quạt chỉ cần cho người chủ ruộng còn trang cào thì mỗi gia đình làm muối chỉ cần sắm một vài chiếc cũng đã là quá đủ. Trong khi đó, mỗi lao động làng muối - dù là chủ hay bạn - đều phải có cặp ky và chiếc đòn gánh. Nhà càng nhiều lao động thì càng nhiều ky, không ít gia đình có đến năm, bảy cặp ky. Gánh muối bằng ky tiện lợi hơn bằng thúng bởi ky dễ xúc, dễ đổ lại mau rỏ nước. Khác với những nơi khác, ky Cồn Cù rất đều nhau và có kích cỡ duy nhất là khoảng hai mươi lăm, hai mươi bảy lít, để mỗi gánh là một giạ “phủ bì” chắc ăn. Ky đã trở thành đơn vị đo lường duy nhất để xác định năng suất, sản lượng cũng như trong trao đổi, mua bán của nghề muối Cồn Cù trong suốt dọc dài lịch sử làng nghề.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, Cồn Cù nói riêng và “Trường Long Hòa sắt thép” (khi ấy Cồn Cù là một ấp của Trường Long Hòa, sau tách ra thành lập xã Dân Thành) nói chung là căn cứ địa vững chắc của nhiều cơ quan, đơn vị vũ trang cách mạng tỉnh Trà Vinh và huyện Duyên Hải. Không chỉ vậy, Trường Long Hòa còn là một trong những mắc xích quan trọng, là bến tiếp nhận, lưu kho, phân phối một số lượng lớn vũ khí, trang thiết bị chiến tranh mà hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho chiến trường đồng bằng sông Cửu Long theo tuyến đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển. Do vậy, từ Vùng IV chiến thuật cho đến Tiểu khu Vĩnh Bình, Chi khu Long Toàn, Chi khu Long Khánh… đều xem đây là mục tiêu tự do tác xạ, tự do oanh kích. Ba trận địa pháo từ Long Toàn, Long Khánh và từ Hạm đội Bảy của Mỹ túc trực trên Biển Đông cứ thay nhau cấp tập nhả đạn vô tội vạ, bất kể ngày hay đêm. Các loại máy bay chiến đấu đến phản lực, pháo đài bay B52… ngày đêm rình rập, sẵn sàng oanh kích bằng bom tấn, bom rải thảm, bom napalm… vào bất cứ mục tiêu nào được xem là tín hiệu sự sống của con người, dù là nhỏ nhất. Trên đường đi bắn phá, ném bom mục tiêu nào đó trở về, nếu còn bom đạn không sử dụng hết, chúng sẵn sàng “tặng không” một cách hào phóng cho vùng đất Cồn Cù. Mỗi khi hành quân càn quét vào đây, các đơn vị từ chủ lực, biệt kích đến bảo an luôn được “quán triệt tư tưởng” giết sạch, đốt sạch, phá sạch. Để sống và chiến đấu chính nơi kẻ thù ra sức hủy diệt, người dân Trường Long Hòa phải làm nhà âm vào lòng cát. Mọi sinh hoạt trên mặt đất chỉ diễn ra vào ban đêm.

Dưới sự hủy diệt của kẻ thù, Trường Long Hòa như bị băm nát. Gần trăm nóc nhà ở Cồn Cù không còn được vật dụng gì đáng giá nguyên vẹn, đến chiếc lu sành chứa nước ngọt lành lặn cũng không. Nhưng những chiếc ky vẫn hiên ngang tồn tại, thấm đẫm vị mặn của muối, của mồ hôi và cả máu người. Đêm, ky ra đồng gánh muối. Ngày, ky vào nhà âm cùng người nghỉ ngơi. Có thể nói, với người dân Cồn Cù những năm đó, chiếc ky là một phần của cuộc sống, của tâm hồn. Mà không chỉ ở thời điểm đó, ngày nay, dù đã khá giả với nghề nuôi tôm, nhiều gia đình ở đây vẫn trân trọng treo cặp ky ở góc nhà như một hoài niệm về quá khứ cơ cực mà hào hùng.

Dưới sự hủy diệt của kẻ thù, Trường Long Hòa vẫn bền bỉ một sức sống mãnh liệt. Dưới những ngôi nhà âm trong lòng cát, người ta vẫn bình thản sinh sống, bình thản cưới xin, bình thản sanh con đẻ cái, bình thản mở trường dạy học… Và, theo dòng tuần hoàn của thời gian, cứ đông tàn thì mùa xuân lại đến, bất chấp những khắc nghiệt của cuộc sống.

Bất ngờ, sáng mồng Một Tết năm Kỷ Dậu - 1969, cả ấp Cồn Cù vang động nhịp trống lân. Từ phía cuối giồng, một đoàn lân xuất hiện kéo theo đám trẻ con reo hò ầm ĩ, dần dần kéo luôn cả những người lớn tuổi rời khỏi nhà âm, nôn nả đón nàng xuân phơi phới như chưa hề có sự hủy diệt của chiến tranh. Lạ lùng thay, “trống lân” là những chiếc xoong, cái thau đã bung vành, hở bụng. “Đuôi lân” là chiếc cửa màn của đôi trai gái mới cưới nhau hồi trong năm. “Đầu lân” là chiếc ky gánh muối mới được bồi thêm mấy lớp giấy đủ màu vui mắt, có cả râu, cả miệng, cả mắt… Chiếc ky cùng con người cực nhọc ngày nào bỗng hóa thân thành niềm vui đón xuân trên vùng đất Cồn Cù đầy lửa đạn chiến tranh. Người cầm trống cứ tha hồ gõ nhịp một cách tùy thích. Vũ điệu của lân cũng là cảm hứng bất chợt của mấy thanh niên trong xóm chưa một lần được ai hướng dẫn, chỉ bảo. Thậm chí, nhiều chú, nhiều anh có tuổi sau năm ba ly rượu đón xuân cao hứng nhảy vào giành lấy đầu lân. “Lân ky” là sáng kiến của anh thương binh Ba Én - một cán bộ đại đội thuộc Tiểu đoàn 501 bộ đội địa phương tỉnh Trà Vinh, sau nhiều lần vào sanh ra tử được đơn vị cho về dưỡng thương tại Cồn Cù. Trong cuộc tập kích chiến lược Xuân Mậu Thân, chiến sĩ Ba Én cùng Tiểu đoàn 501 là đơn vị chủ công tiến công thọc sâu vào nội ô Trà Vinh. Giữa mưa bom bão đạn, bất ngờ anh nhận ra bên vệ đường Hàng me, nằm lăn lóc một chiếc đầu lân, mà chắc đoàn lân nào đó đang biểu diễn phục vụ người dân thì chiến sự ập đến, vội “bỏ của chạy lấy người”. Sau khi bị thương trở về căn cứ, hình ảnh chiếc đầu lân nằm lăn lóc khiến Ba Én nhiều đêm mất ngủ, với nghĩ suy làm sao mang niềm vui tương tự đến cho bà con vùng giải phóng.

Và, đoàn “lân ky” Cồn Cù ra đời từ những đêm dài thao thức đó!

Sau ba ngày vui chơi sôi nổi khắp xóm dưới làng trên, đoàn “lân ky” Cồn Cù trở nên “giàu có”. Những tặng phẩm như dưa hấu, bánh tét, mứt gừng… của các gia đình được “lân ky” đến chúc Tết đã theo chân đoàn lân mang niềm vui đến với những bà mẹ có con vừa hy sinh, những người chị có chồng đang ở chiến trường xa không thể về đón xuân, sum họp gia đình.

“Lân ky” không chỉ mang đến cho Cồn Cù một phong vị Tết kháng chiến độc đáo mà nó còn trở thành niềm tự hào của các thế hệ cư dân địa phương.

Sau ngày giải phóng, để người dân vùng căn cứ vốn chịu nhiều thiệt thòi trong chiến tranh có thêm niềm vui đón mừng xuân mới, UBND xã Dân Thành xuất tiền mua đầu lân, trống lân thật đẹp rồi lên tận thị xã Trà Vinh rước thầy về hướng dẫn thật bài bản, lớp lang. Sau gần hai tháng tập dượt, sáng mồng Một tết, đoàn lân phát pháo xuất hành đi về các ấp chúc Tết. Bất ngờ, từ phía Cồn Cù, đoàn “lân ky” xuất hiện trong nhịp xoong, nhịp chảo. Và cũng thật bất ngờ, bà con Dân Thành vẫn nhiệt tình ủng hộ đoàn “lân ky” có hình vóc thô sơ, vũ điệu hệch hạc ấy. Theo chân đoàn “lân ky”, vẫn cơ man quà tặng, nào là bánh tét, trái cây… hướng về những gia đình chính sách neo đơn. Muối mặt, đoàn lân thiệt xênh xang lân mới, trống đẹp hậm hực quay đầu.

“Lân thiệt đụng lân ky”, kỷ niệm ấy đến nay vẫn không phai mờ trong ký ức các thế hệ cư dân Cồn Cù.

Nguồn: Báo Văn Nghệ Tết Nhâm Dần.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.
Xem thêm
Thầy tôi - Kho báu của tôi
PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore
Xem thêm
“Cú hattrick” của nhà thơ Triệu Kim Loan
Nhà thơ Triệu Kim Loan sẽ ra mắt độc giả ba quyển sách (hai tập thơ: Khát vọng xanh, Đối thoại đêm và quyển Cảm nhận văn chương)
Xem thêm
Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. “Sông vẫn chảy đời sông” của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.
Xem thêm
Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang
Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).
Xem thêm
Dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông – Ký của Thanh Thảo
Năm 1973, khi tôi từ chiến trường Nam Lộ Bốn (Mỹ Tho) trở về lại cơ quan binh vận ở R, tôi rất phấn khởi vì cơ quan tôi đã dời về đất Tây Ninh, đóng căn cứ ở Bến Tháp ngay sát sông Vàm Cỏ Đông. Đoạn sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, cũng là thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Từ Mỹ Tho, trước khi băng qua đồng Tháp Mười lên chiến khu, chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ Tây, bây giờ lại được ở sát sông Vàm Cỏ Đông, thật thú vị.
Xem thêm
Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 
Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.
Xem thêm
Nhà thơ Thanh Thảo… Nghĩ
Bây giờ, khi đã ngấp nghé tuổi tám mươi, tôi mới nhận ra, khi mình càng về già thì thời gian trôi càng nhanh. Và thời gian là thứ mình không thể khắc chế được. Việc hôm nay chớ để ngày mai mới làm, vì có khi không kịp.
Xem thêm
Nghệ sĩ Bảo Anh đang trên đường trở về quê nhà
“Một đám rước”, dường như có những tương đồng với “đám rước” khi thân xác nghệ sĩ Bảo Anh được trở về quê nhà, về U Minh, Cà Mau, nơi chôn nhau cắt rốn của anh.
Xem thêm
Vũ Quần Phương tiết lộ chuyện đặc biệt về Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… thế hệ đàn anh – những người đã “lót ổ” cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
Xem thêm
Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống rồi mới viết
Trong lớp nhà văn cao tuổi hiện nay, có một người tôi luôn chờ đợi đọc những sáng tác mới của ông. Đó là nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên thật Đinh Trọng Đoàn). Chỉ có điều thời gian gần đây tuổi cao đã khiến ông không viết đều, viết nhiều như trước. Thế nhưng, thi thoảng vẫn được đọc những truyện ngắn mới của ông, hay những bài báo gửi gắm trăn trở, suy tư.
Xem thêm
Cuộc chiến nhân tính – Tiểu luận của Hoàng Thuỵ Anh
Nhà văn Hữu Phương là một trong số những cây bút văn xuôi kỳ cựu của miền Trung, đã khẳng định sở trường, sự điêu luyện khi nhìn sâu và cắt nghĩa tính tàn bạo của chiến tranh thông qua những số phận bị chấn thương, bi kịch.
Xem thêm
Nhớ mãi kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Quốc Trung
Qua các nguồn tin, được biết Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị phối hợp tổ chức hoạt động tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung sau 2 năm anh rời “cõi tạm” và nhân sự kiện anh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với tiểu thuyết Đất không đổi màu, tôi cảm thấy vui mừng xen lẫn sự bồi hồi, xao xuyến.
Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm