TIN TỨC

Tôi đọc hiểu bài thơ “Vô minh” của Trương Xuân Thiên như thế nào?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-12 10:46:59
mail facebook google pos stwis
2137 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

VÔ MINH là một bài thơ được rút từ tập thơ ÁO HỒ LY của Trương Xuân Thiên, do Nhà xuất bản VĂN HỌC ấn hành năm 2017. Đó là bài thơ đầu tiên, ở trang 11, trong tập thơ này:
 

VÔ MINH

Thánh thần từ độ vô minh

Trần gian tuyệt chủng ân tình đêm nay

Tin yêu chịu kiếp lưu đày

Lời thề quẫn bách ăn mày tứ phương

 

Đất trời từ độ tang thương

Chân tình gieo rắc tai ương khắp miền

Khát khao tỏa sáng muộn phiền

Mặt trời xõa tóc dại điên khóc cười

 

Ô kìa một lũ mặt người

Ngời trong hốc mắt con ngươi mù lòa

Thật thà nô lệ điêu ngoa

Mùa xuân bức tử nhành hoa cuối cùng

 

Nấm mồ chôn xác thủy chung

Hồn ma oan khuất cháy bùng thương đau

 

Tôi đã đọc VÔ MINH … đến...

Thôi đành níu áng mây trôi

Thắp mùa ân ái lên môi người tình

Tháng Ba nhỡ hẹn sân đình

Chỉ mầu hoa gạo vô minh cháy òa

(bài HOA GẠO, tr 122)
 

để rồi… thức tỉnh khi đọc nốt một bài thơ, chỉ có hai câu, ở cuối tập thơ:

Ta về ngủ dưới tàng cây

Trời xanh vừa nở đóa mây đầu lòng

(bài ĐÓA MÂY, tr 123)
 

thì dừng lại mãi ở hai bài thơ cuối cùng kia … để lại trở lên đọc lại VÔ MINH...

Và, tôi biết mình vừa mới đi hết một vòng thức nhận!?...

 

1.Tôi nghĩ mình sẽ có được gợi mở thêm, để đi tiếp hành trình đọc hiểu VÔ MINH nữa, một khi xem lại lời giới thiệu tập thơ chăng?...

Đây là lời ấy của nhà thơ Du Tử Lê, được trích vào tập thơ, với chỉ một câu, như sau:

“Lục bát của Trương được ngọn hải – đăng – siêu – thực dẫn đường cho mọi lênh đênh tìm về của thể Sáu Tám, vốn đẫm đẫm tâm cảnh và, cảm thức lạc lõng, bấp bênh của tuổi trẻ đương thời, trước những vấn nạn lớn lao, muôn đời của kiếp nhân sinh”

(ÁO HỒ LY, tr 5)

Nhưng những… “đẫm đẫm tâm cảnh và, cảm thức lạc lõng, bấp bênh”… hay… “những vấn nạn lớn lao, muôn đời của kiếp nhân sinh”, cũng chưa giúp được gì nhiều cho tôi trước thách thức MINH!..

Tôi tìm đến nhà thơ. Trương Xuân Thiên tự bạch:

“Với tôi, tôi muốn kiến trúc một thế giới khác. Một lục bát khác. Một cảnh giới khác. Ở đó tôi là vị Giáo chủ quyền năng. Hết thảy mọi sự trong cõi giới đó, phó thác linh hồn bằng những rung động vi diệu. Hỗn độn. Dung thông.

ÁO HỒ LY là một thế giới như vậy.”

(ÁO HỒ LY, tr8).

Là thế giới của những HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG được tạo bởi “những rung động vi diệu” của “linh hồn”; hay là “linh hồn” “rung động vi diệu” trước những HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG mà ai đó đã tạo ra? Tôi thấy vẫn chưa dễ thức nhận VÔ MINH ! Cái tấm choàng U TỐI vẫn chưa thể được vén lên, nhờ một lời giới thiệu, với dăm câu tự bạch, tuồng như vẫn nhằm né tránh.

Tại sao?!

Đành lại phải dẫn dụ thêm, giờ là chính THI NHÂN trong cuộc, bài thơ rút từ ÁO HỒ LY, trang 83:

 

THI NHÂN

Đêm nay con chữ rối bời

Thi nhân ngồi khóc bên trời tha hương

Gỡ từng sợi nhớ niềm thương

Mà đa đoan buộc vô thường truân chuyên

 

Chữ về tắm động lâm truyền

Mà ngôi lời sáng thượng huyền hoang vu

Vần thơ lạc chốn âm u

Tin yêu chịu kiếp lao tù hàm oan

 

Mười năm ngôn ý bất hoàn

Trăm năm thi tứ vẫn hoàn ái ân

Xuân thì một đóa thanh tân

Mà lời trong cõi phù vân khóc thầm
 

Bên song cơn gió mọc mầm

Vì sao côi cút lặng câm nói cười

 

Nhưng THI NHÂN ấy là ai? Tác phẩm THI NHÂN kia vẫn chỉ giúp tôi nhìn nhận ra một vài trong muôn vàn HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG nơi VÔ MINH ÁO HỒ LY mà thôi. Phải chăng là bởi THI NHÂN cũng chỉ là một trong cái thế giới HỖN ĐỘN của ÁO HỒ LY ?...

 

2. ÁO HỒ LY ! Tại sao lại là ÁO HỒ LY ?

Cái tên của tập thơ đã gợi lên một thoáng trách cứ trong tôi, rằng ai lại lấy cái thứ “quái đản” như thế để đặt tên cho “những rung động vi diệu” của “linh hồn” ?! Rồi tôi lại tự hỏi: ÁO HỒ LY có phải là cái áo của con Hồ Ly nó mặc không? Chợt cái định danh “quái đản” kia khiến tôi vỡ ra cái nhẽ rằng, đó là một cái vỏ (ÁO), trùm chứa bên trong là cái biến ảo (HỒ LY), hay có thể hiểu, đó là một nội dung, trong một hình thức, của một CÁI BIẾN ẢO...

Nhưng CÁI BIẾN ẢO kia là cái gì?

Rất may là trong tập thơ ÁO HỒ LY, ở trang 56 có một bài thơ có tên là ÁO HỒ LY. Bài thơ có “bật mí” được gì cho tôi không? Tôi xin dẫn dụ ra đây:

 

ÁO HỒ LY

Hồ Ly đan áo cho chồng

Mỗi đêm đan một mặn nồng lên môi

Thanh tân biếc biếc đâm chồi

Lụa là buốt buốt núi đồi linh linh

 

Ôi!... Đến cả bài thơ này cũng chỉ cho tôi được vài tia sáng, mấy vạch dấu hiện lên trên cái giải trường phổ nghĩa thâm u của VÔ MINH mà thôi. Bởi đó chỉ là chuyện riêng, rất điển hình, nhưng cũng rất riêng tư của Hồ Ly. Thì đấy, "...đan áo cho chồng" mà “Mỗi đêm đan một mặn nồng lên môi”, thì đâu có phải là đan áo; mà đó là câu chuyện “…biếc biếc đâm chồi” ; là cái chuyện ở bên trong cái áo; còn cái áo thì… đã cởi ra treo ở đầu kia rồi!...

Đành phải như Ngộ Không, nhưng tôi trở về không phải để nói với Đức Phật là đã “cân đẩu vân” vượt thoát bàn tay của Ngài; mà để nói với chính tôi rằng mình vẫn chưa ra khỏi cái ÁO HỒ LY, nếu chưa đi hết cung đường mã hóa VÔ MINH. Đúng! cái sự VÔ MINH ở đây nếu chưa được mã hóa, thì sẽ chẳng có chìa khóa, chẳng có sáng soi để đi tiếp... sẽ chỉ đứng ngoài ÁO HỒ LY mà thôi !...

 

3. VÔ MINH, tên của bài thơ đưa tôi đến một niệm căn Phật giáo. Chỉ một cái “nhắp chuột vi tính”, trong chỉ 0,52 giây, tôi đã có đến 220 triệu kết quả giải nghĩa VÔ MINH là gì. Tựu trung thì VÔ MINH u tối là mặt đối lập với TRÍ TUỆ sáng suốt; là sự nhận thức lầm lẫn, không đúng về bản ngã và thế giới, căn cốt của mọi bất thiện, khổ đau và bất hạnh…

Và tôi lại một lần nữa bắt đầu đọc hiểu lại bài thơ…

3.1. Ngay câu thơ đầu tiên: “Thánh thần từ độ vô minh”, tôi đã phải dừng lại. Bởi VÔ MINH lại xuất hiện! Có điều, giờ đây, nó chỉ định THÁNH THẦN, chứ không phải là một thứ “dân ngu khu đen” nào đó. Vậy THÁNH THẦN ở đây là ai?

Có phải là Thần thánh siêu nhiên vô hình, hoặc một chính vị Thần linh hữu thể... là những bậc Thần quyền Sinh – Sát chúng sinh vô thường, theo quan niệm dân gian không nhỉ?

Không phải! Chữ trong bài thơ viết rõ là “Thánh thần”, vậy có thể là dẫn chỉ đến Chúa Thánh Thần trong Kitô giáo chăng?

“Trong Kinh Tín Kính, Giáo hội tuyên xưng rằng: Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng Ban Sự Sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Đó là Ngôi Ba Thiên Chúa, xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, cùng bản tính Ngôi Cha và Ngôi Con, nên Người là Đấng Vô Hình, không ai thấy Người bằng giác quan, nhưng có thể nhận ra Người qua những dấu chỉ và các tác động”. (Thí dụ như hơi thở, như gió…).

Nhưng CHÚA SÁNG THẾ thì làm sao có thể là VÔ MINH !?... Tuyệt đối không! Đức tin Kitô hữu không cho ai, cũng chẳng ai, có thể nghi ngờ về SÁNG THẾ cả! Đọc kỹ câu thơ tôi mới nhận ra cái “từ độ” lọt giữa một trước, là Đấng Vô hình Quyền năng Sáng Thế; và một sau, là “vô minh” – mặt đối lập của TRÍ TUỆ sáng suốt... "từ độ" ở giữa kia chính là một cái phiếm định.

"Từ độ" rõ ràng là không xác định thời gian khi nào, lúc nào, ngày tháng năm nào…địa chỉ nơi chốn nào… số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao… thảy đều phiếm chỉ, phiếm định… Ôi, chẳng có xác định gì cả !...

“Thánh thần từ độ…” làm gì có chuyện hồ đồ ấy ?! Cái “từ độ” tố với tôi là bài thơ mượn chữ “Thánh thần” để ẩn chỉ con người mà thôi. Vì chỉ con người mới có lúc thế này, có khi thế khác, hồ đồ lầm lẫn, chứ “Thánh thần” thì làm sao lại thế được, nhất là THÁNH THẦN CỨU THẾ !
 

Mặt khác, dùng chữ “Thánh thần” còn là thủ pháp “cáo mượn oai hùm” của bài thơ. Ở đây là mượn cái ngữ nghĩa Quyền lực sinh – sát bất lương của Cường quyền VÔ MINH. Do đó có thể nhận thấy từ cấu trúc câu thơ “Thánh thần từ độ vô minh”, những sắc thái ngữ nghĩa tự vị (nghĩa đen), đã chuyển đổi thành những Ẩn dụ, những Hình tượng, đã thành Ngôn ngữ Thơ; chuyển tải và truyền đi không chỉ là THÔNG TIN “Thánh thần từ độ vô minh”; mà chính là THÔNG ĐIỆP “Chính thể Quyền lực từ độ U TỐI” –  tư tưởng của bài thơ !...

Nhưng, tôi xin nói trước và nói ngay ở đây, rằng cả cái vỏ hình thức (ÁO), lẫn cái ruột nội dung biến ảo (HỒ LY), thì như tác giả đã có lời tự bạch, rằng đó là cả “một thế giới” đã lại vào độ HỖN ĐỘN, DUNG THÔNG. Vì thế câu thơ “Thánh thần từ độ vô minh” còn chuyển tải một thông điệp rộng lớn hơn cái thông điệp Độc quyền ngụ ý mà tôi vừa nêu ra trên kia.

3.2. Rằng câu thơ “Thánh thần từ độ vô minh” mở đầu bài thơ, mở đầu tập thơ, như một công cáo được tuyên ở đây, khiến tôi liên tưởng đến tuyên bố “CHÚA ĐÃ CHẾT” (tiếng Đức: Gott ist tot) cách đây hơn 130 năm của Friedrich Nietzsche. VÔ MINH“Thánh thần từ độ vô minh” có phải là tiệt diệt, có phải là cái thời điểm không còn, không có “Thánh thần” nữa, đúng không? Có phải là "từ độ" xuất hiện vụ nổ lớn “Binh bang” khiến HỖN ĐỘN lại trở về HỖN ĐỘN... phải không? “Thánh thần từ độ vô minh” ấy đã khiến mọi ngọn nguồn của ĐẠO LÝ, GIÁ TRỊ, TRẬT TỰ… đã có không còn nữa, cũng không còn cần đến nữa, đúng không!...

CHÚA là một NIỆM CĂN, cũng giống như THỂ CHẾ CẦM QUYỀN là một ĐỊNH CHẾ. NIỆM CĂN về cái TOÀN THỂ của ĐẤNG SÁNG THẾ đã không còn tồn tại, thì cái TOÀN THỂ cũng sụp đổ một cách hiển nhiên… Và, đó là căn nguyên của cái HỖN ĐỘN, khởi thủy cho cái DUNG THÔNG trong một VÔ CÙNG BIẾN ẢO “ÁO HỒ LY”, đúng không?!...

3.3. Thế nên, hiện tồn sau cái “từ độ” ấy là “tuyệt chủng ân tình”, “lưu đày” “tin yêu”, “quẫn bách” “lời thề”; là “chân tình” lại “gieo rắc” “tai ương”, “khát khao” chỉ biết “tỏa sáng muộn phiền”, và trời ơi, đến như cả “mặt trời” cũng “dại điên” “xõa tóc” “khóc cười” như ai…

Thế đấy!... Và đây, hiện ra là “một lũ mặt người”, mà từ thẳm sâu “hốc mắt” đã chỉ còn “ngời” lên tăm tối “mù lòa”… Còn gì khốn nạn và đau khổ hơn là khi “thật thà nô lệ điêu ngoa”; là khi cái ác thản nhiên “bức tử nhành hoa...” có lẽ là còn sót lại của ...mùa xuân” “...cuối cùng”

… Và rồi, cái gì đến đã đến! Ấy là “Nấm mồ chôn xác thủy chung”. Chính là xác của cái TOÀN THỂ, từ khởi đầu: Thủy phát, đến kết thúc: Chung cuộc; tất cả đã chết, đã VÔ MINH ! Tuy nhiên, Sinh - Trụ - Dị - Diệt… bóng tối VÔ MINH vẫn chỉ như là tấm choàng (ÁO) bao phủ, ủ ấp cái bên trong đó, chính là cái “Hồn ma oan khuất” đã và mãi vẫn “cháy bùng thương đau”...

“Hồn ma” ở câu thơ này, trong bài thơ MINH này, còn có thể là cái khác cái BIẾN ẢO (Hồ Ly) của CÁI THỰC TỒN đích thực chăng?...

3.4. Cái đích thực đó là gì? Đó là “một thế giới khác”, “một lục bát khác”, “một cảnh giới khác”... mà rất tiếc là tôi không thể nói đủ hết ra đây được, về cái thức nhận TOÀN THỂ của mình, trong một bài viết ngắn, được giới hạn chỉ về đọc hiểu bài thơ VÔ MINH ở đây. Bởi đó chính là “linh hồn”, là vi diệu” “rung động” cuộc tồn sinh trong cái “hỗn độn” “dung thông” diễn ra trong suốt cả tập thơ và hơn thế... với hàng trăm ngàn “rung động” “vi diệu” của những “linh hồn” vẫn “cháy bùng” biết mấy “thương đau” “oan khuất” vì đã phải như chết ngay giữa cõi sống đang sống…

Đó là lý do vì sao đọc VÔ MINHÁO HỒ LY của Trương Xuân Thiên, tôi đã nghĩ đến cáo chung “Chúa đã chết” của Friedrich Nietzsche. Thế giới sẽ như thế nào, tồn tại sẽ ra sao khi không còn, cũng không cần có CHÚA, thì tôi đã thấy từ người phát ngôn của F. Nietzsche: “Zarathustra đã nói như thế” (Also Sprach Zarathustra, tiếng Đức); cũng như một THỂ CHẾ sẽ như thế nào một khi nó VÔ MINH; và thay đổi nó ra sao, là cái mà tôi đã nhìn thấy ở ÁO HỒ LY của Trương Xuân Thiên!...

Đọc bài thơ MINH, tôi thấy đó như là một ĐỀ TỪ của tập thơ ÁO HỒ LY, cũng như một TUYÊN THÔNG về một THỰC TỒN đang sắp sửa…

Tôi nghĩ, một thế giới BIẾN ẢO như vậy, thì cần phải xông vào để sống trong nó, đồng cảm thông, cùng thức tỉnh với nó, Sinh - Trụ - Dị - Diệt cùng nó…, nghĩa là phải đọc cả tập thơ, cảm nhận hết, thức nhận đủ cả tập thơ, thì mới nhận thức được vì sao ÁO HỒ LY khởi thủy bằng việc “Thánh thần từ độ vô minh”; rằng VÔ MINH tồn tại như thế nào, TỒN TẠI sẽ ra sao trong VÔ MINHTỒN TẠI làm sao thoát khỏi VÔ MINH để tồn tại…

Nghĩ thế mà tôi đưa ra đây thức nhận của tôi về bài thơ MINH của Trương Xuân Thiên, như một khảo chiếu về THÔNG ĐIỆP của bài thơ, với ai đó khác, đã cùng đọc tập thơ ÁO HỒ LY với tôi và như tôi…

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm