TIN TỨC

Trần Nguyệt Ánh và không gian vũ điệu trong “Vọng núi”

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-29 23:35:56
mail facebook google pos stwis
1831 lượt xem

Thơ ẩn nấp trong tâm hồn và xuất hiện từ tâm hồn. “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”, Voltaire – nhà văn, sử gia và triết gia Pháp thời Khai sáng từng nói như vậy. Nhưng, hiển nhiên, thơ ca luôn vận động, bởi cuộc sống không đứng yên.

Nhà thơ Trần Nguyệt Ánh

Thơ ca Việt Nam, sau 1975, nhất là sau năm 1986 đến nay đang vận động, hay thì chưa nói, nhưng dễ thấy là xu hướng đa dạng. Nhà LLPB Nguyễn Thanh Tâm nhận xét: “Thơ Việt Nam sau 1975 vận hành theo ba khuynh hướng lớn: Khuynh hướng bảo tồn những giá trị thơ ca truyền thống/ Khuynh hướng cách tân/ Khuynh hướng cách tân trên cơ sở kế thừa truyền thống”, (nguồn: báo Tổ quốc). Hẳn nhiên, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà LLPB về xu hướng này.

Tôi quen biết nhiều bạn thơ, thấy họ có nhiều cố gắng đổi mới thi ca. Nếu như nhà thơ Trần Quang Quý khai sinh ra thể thơ namkau (năm câu); thì ở TP. Hồ Chí Minh, có lẽ trên “nền” thơ Haiku (Nhật Bản), nhà thơ Lệ Bình chủ trương làm thơ hai câu về lục bát…Dù cách tân triệt để hay cách tân nửa vời, thành công hay chưa thì công chúng yêu thơ cũng đã được thưởng thức, ngắm nghía. Chắc chắn rằng, “bàn chân không có trên lối mòn”, theo như cách nói của nhà thơ Vương Cường, nên nhiều nhà thơ với trách nhiệm, trước hết với chính mình đã và đang tìm cách đổi mới.

Trong xu hướng ấy, tôi được biết đến “thơ 1-2-3” trên trang “Văn học Sài Gòn”, do nhà thơ Phan Hoàng chủ xướng. Từ chú ý không chủ định, tôi chuyển sang chú ý có chủ định, khi thấy “thơ 1-2-3” lan tỏa, rất đông người hưởng ứng nhất là người viết trong giới giáo chức. Và rồi, tôi nhận được 2 tập thơ thể loại 1-2-3, trong đó có tập thơ “Vọng Núi”, NXB Hội Nhà văn năm 2022 của cô giáo, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh ở Đắk Lắk.

Nói về Trần Nguyệt Ánh, được biết chị là hội viên Hội VHNT Đắk Lắk, nhưng vào Hội với chuyên ngành văn hay thơ thì không rõ. Chỉ biết, chị sáng tác cả văn, truyện ngắn đã từng được đăng trên Văn nghệ Công an, thơ của chị thì đã được nhiều tở báo, tạp chí VHNT đăng. Như vậy là người viết có nội lực.

Tập thơ 1-2-3 “Vọng núi” của Trần Nguyệt Ánh vừa ra mắt ở Đường Sách Cà phê Buôn Ma Thuột – Đắk Lắk ngày 21.4.2022

“Vọng Núi” gồm 132 bài. Chính nhà thơ Phan Hoàng đánh giá đó là “Vũ điệu cao nguyên nóng bừng ngọn lửa”, (tiêu đề của Tựa tập thơ). Ngoài Tựa của nhà thơ cách tân Phan Hoàng, “Vọng Núi” còn có phần Phụ bản với hai bài viết của nhà phê bình Khang Quốc Ngọc và nhà thơ Trương Nhất Vương. Như vậy, là được các nhà nghiên cứu để ý từ lúc tập thơ còn là bản thảo.

“Vọng Núi”, đúng như nhà thơ Phan Hoàng và Trương Nhất Vương nhận định, đó là không gian của vũ điệu Tây Nguyên. Trước khi đọc thơ chị, tôi để ý có bài thơ “Khi ta đến với thơ”. Phải đọc trước bài này, biết đâu, lý giải được, vì sao tâm hồn chị đăm đắm cùng thơ.

Được lĩnh hội cả bầu trời nhân nghĩa

Con mắt thơ chiếu sáng từng sinh linh hoa cỏ

 

Thơ hồi sinh những tâm hồn cằn cỗi, tật nguyền

Ta yêu hơn những kiếp người khốn khổ

Soi lại mình để viết tiếp giấc mơ!

(Khi ta đến với thơ)

Đến đây thì bạn đọc đã có khái niệm về “thơ 1-2-3”. Cấu trúc của thể thơ này gồm 6 câu, cả tên bài; nó như nhịp vận động, liên kết chặt chẽ ngay từ câu thứ nhất (tên bài thơ). Qua bài thơ “Khi ta đến với thơ”, độc giả yêu thơ Trần Nguyệt Ánh còn biết được tuyên ngôn của chị. Theo cách nói của nhà thơ quá cổ Chế Lan Viên thì câu thơ phải luôn bất ổn xôn xao, đọc “tự bạch” đến với thơ của Trần Nguyệt Ánh đã thấy chị lựa chọn sự “bất ổn”.

Trần Nguyệt Ánh có gốc ông, bà, bố mẹ quê Thái Bình, chị mới là “F1 Tây Nguyên” nhưng sinh ra, lớn lên, cuộc sống hiện tại gắn bó với Tây Nguyên. Trong “Vọng Núi”, chị có dành cho cố thổ một số bài như “Tự hào phụ nữ quê mình Năm Tấn”, “Ước cùng anh một lần về dự lễ hội chùa Keo”; còn lại là “nhịp điệu Tây Nguyên”, ngay cả mảng thơ tình, vốn là thế mạnh, dễ tạo ra bản sắc cho từng tác giả thơ nữ.

“Ta ru mình trên ngọn núi Chư – Yang – Sin/ Để nghe tiếng ngân rung của gió đại ngàn/ Để lắng hồn mình nghe âm vang từ dòng thác/ Khói lam chiều ẩn hiện mái nhà rông/ Tây Nguyên hồn nhiên đất đỏ Ba zan/ Tựa lưng núi lòng ta ngập tràn hương sắc”. Tây Nguyên nuôi dưỡng tâm hồn Trần Nguyệt Ánh, hay nói cách khác, cho chị tất cả trong đó có tâm hồn; vậy nên trong “Vọng Núi”, ngờm ngợp gió, ngợp ngợp hoa và tất cả những gì bản sắc Tây Nguyên. Đó có thể là tiếng chim Pí, là sắc vàng của mênh mông Dã quỳ, là những thác nước tung lên màu huyền sử.

Do thể “thơ 1-2-3” đặc biệt nên trích dẫn thơ trong các bài bình hay lý luận cũng khác thường. Phải dẫn nguyên cả bài mới đập vào trực giác nhịp điệu. Mong bạn đọc khi đọc bài viết này, nhận diện ra 1-2-3 từ tưởng tượng, nhận diện ra “khoảng trắng” giữa 1-2-3.

Trên từng câu thơ của Trần Nguyệt Ánh dễ nhận ra “bất ổn, xôn xao”. Chị là người đa cảm, cuộc sống với tất cả niềm vui, nỗi buồn ập vào chị thành suy tư, ưu tư. Và cái đẹp của thi ca cất lên. Đó là mơ ước về hạnh phúc, thánh thiện cho con người.

“Ước mơ về một ngày mai tươi đẹp

 

Cậu bé mồ côi ước được chăm sóc trong vòng tay mẹ

Em bé tật nguyền ước một lần bước nhẹ đôi chân

 

Kẻ mù lòa ước có một đôi mắt trong ngần

Nhìn thấy ánh sáng như bao người bình thường khác

Những người con yêu đất nước mình khát khao sự bình yên” 

Sự phát triển tư duy thơ từ hiện thực đến chiêm nghiệm, từ đời thường đến chân giá trị. Hẳn nhiên, ước mơ từ cụ thể của từng con người đến số phận dân tộc luôn mang thông điệp cái đẹp, ánh lên vẻ đẹp nhân bản. Đó là sứ mệnh của thi ca.

Đọc “Vọng Núi” của Trần Nguyệt Ánh, tôi nhớ một câu nói nữa cũng của cố nhà thơ Chế Lan Viên: “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi/ Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”. Đúng thế, nên đọc và cố gắng đọc khi còn có thể và có điều kiện; ngay cả với tác phẩm của những nhà thơ trẻ. “Hôm nay ươm mầm từ những điều nhỏ bé/ Để ngày mai gặt hái niềm hi vọng to lớn khôn cùng”, tôi thích hai câu thơ này trong bài “Cuộc sống này muôn vàn điều tốt đẹp” của Trần Nguyệt Ánh.

Trần Nguyệt Ánh đã và đang mạnh mẽ ươm mầm trên đất Tây Nguyên, với trách nhiệm của một công dân, có ý thức tìm tòi, đổi mới mình trên mỗi trang thơ với trách nhiệm của người viết. Tất nhiên, đó là con đường dài, không riêng với chị./

NGÔ ĐỨC HÀNH/VANVN

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm