TIN TỨC

Văn học của người Việt ở hải ngoại: Tình thế của văn chương di dân

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1507 lượt xem

 

Cuối thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã mở ra nhiều hướng đi mới. Thời điểm này cũng là lúc chúng ta chứng kiến thêm sự bùng nổ và cất tiếng của các trào lưu văn học hiện đại với các thành tựu và sức ảnh hưởng đáng kể.

Bức tranh văn học Việt Nam đương đại có thêm nhiều màu sắc về ngôn ngữ, tư tưởng, mĩ học cũng như tính địa lí, lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội… Bên cạnh tác phẩm của các nhà văn trong nước, văn đàn còn được góp tiếng nói bởi tác phẩm của những nhà văn hải ngoại viết bằng tiếng mẹ đẻ như Đi hết đường mưa (Phạm Hải Anh), China Town (Thuận) hay Oxford thương yêu (Dương Thuỵ)… Những nhà văn thuộc nền văn học di dân, sau khi được tái định cư ở ngoại quốc, bắt đầu tiếp xúc với những nền văn hoá mới. Do đó, bản thân họ luôn thường trực ở giữa những xung đột cũ và mới. Vấn đề này luôn được đặt ra trong các tác phẩm của họ. Tác giả Đào Trung Đạo trong cuốn sách Văn chương di dân viết về quê hương từ bên ngoài đã đặt ra ba câu hỏi để chúng ta cùng đi tìm câu trả lời. Đầu tiên, đối tượng của nhà văn di dân là ai. Thứ hai, tính trung thực trong mô tả quê hương của một người ở phía ngoài có đúng hay không. Cuối cùng, di dân luôn chứa những lai ghép về văn hoá, vậy người viết đứng trên lập trường nào để viết. Đó đều là những câu hỏi còn để ngỏ cho những nhà nghiên cứu phê bình tiếp tục khai thác.

Những nhà văn Việt ở hải ngoại – một cuộc di cư của văn chương

Hiện tượng người Việt di cư ra nước ngoài đã có từ trước thời điểm đất nước thống nhất (30/4/1975). Đó là những đợt di cư khác nhau với tâm thế khác nhau của các bộ phận người khác nhau.

Thế hệ nhà văn di cư đầu tiên như Nguyễn Mộng Giác, Tô Thùy Yên, Trần Mộng Tú… chỉ viết bằng tiếng mẹ đẻ. Thế hệ tiếp theo đã khác đi rất nhiều. Họ có thể sáng tác song ngữ, như Đinh Linh, Nguyễn Quý Đức, Đỗ Kh… Họ là thế hệ khoảng giữa, là cầu nối hai thế hệ. Một mặt, tiếng Việt và sợi dây kết nối với quê nhà của họ đủ tốt, không “mất gốc”, đồng thời, khả năng ngoại ngữ và thích nghi của họ cũng tốt để có thể tồn tại ở xứ người. Thế hệ này có người chuyển sang ngôn ngữ hoàn toàn mới: Mộng Lan (tiếng Anh), Linda Lê (tiếng Pháp)… Cũng như các nhà văn thuộc các cộng đồng gốc Á khác vốn sinh ra ở Mĩ hoặc sang Mĩ khi còn nhỏ, những nhà văn như vừa kể chọn lựa viết văn bằng tiếng nước khác có thể vì họ không giỏi tiếng Việt, họ thích và thích nghi tốt với văn hoá của nước nơi họ đang định cư. Cái nhìn cố quốc “từ bên ngoài” tạo lợi thế khi sáng tác đồng thời cũng là thách thức đối với các nhà văn này. Việc làm chủ được ngôn-ngữ-của-đa-số giúp cho sáng tác của họ có số lượng độc giả khá đông đảo.

Tình thế của cuộc sống hình thành nên những giai đoạn sáng tác của các nhà văn di dân. Giai đoạn đầu tiên in dấu khá rõ bối cảnh về sự tan vỡ cuộc sống yên ổn trước đây. Trên vùng đất mới, thế hệ những người di cư đầu tiên còn gặp khó khăn do khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ nên không thể hòa nhập nhanh chóng. Sự cô đơn của người già, sự chối bỏ căn tính trong một “cộng đồng người Việt”, sự li tán của gia đình, sự chia rẽ nội bộ cộng đồng di tản… cũng là áp lực lớn mà họ phải đối mặt. Những gam màu u ám đó luôn là phông nền chủ đạo trong các câu chuyện của Hồ Trường An (Hoà hợp), Nguyễn Bá Trạc (Ngọn cỏ bồng) hay Huy Phương (Hạnh phúc xót xa)… Chẳng hạn, tác phẩm Hạnh phúc xót xa của Huy Phương nói đến những tình cảnh của người Việt tại Mĩ. Đó là những dằn vặt, mâu thuẫn, đấu tranh của nhân vật khi đứng trước quá nhiều khó khăn trong hoàn cảnh sống tha hương.

Cùng với thế hệ di cư đầu tiên, thế hệ di cư tiếp theo sẻ chia lòng yêu mến tiếng Việt, nhưng không sẻ chia gánh nặng tình cảm đối với quá khứ. Người đọc thấy trong tác phẩm của họ sự khắc khoải kiếm tìm tình yêu, hi vọng, niềm tin… Có nhiều người ra đi và đã quay trở về như Nguyễn Quý Đức, Đặng Thơ Thơ… Đi những con đường tưởng khác nhau nhưng họ vẫn có điểm chung bởi những căn rễ đã ăn sâu vào máu thịt. Có thể, họ từ chối nguồn gốc, tự xem mình là người bản địa, thích nghi với văn hoá và lối sống bản địa một cách dễ dàng, thường xuyên có những xung đột với gia đình, cha mẹ – những thành viên thuộc thế hệ di dân thứ nhất…, nhưng đến khi có một sự kiện, một “thời điểm” nào đó trong cuộc đời, họ buộc phải nhìn lại thân phận, gốc gác của mình, và viết. Khi đó, những khao khát được nối kết, được gần lại những thân tình xưa cũ chợt hồi sinh (Thư chết, Linda Lê).

Là một bộ phận của văn học di dân, văn học dịch được thực hiện bởi các nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu gốc Việt đã làm gần lại những khoảng cách địa lí và văn hóa. Việc giới thiệu văn học Việt Nam hải ngoại, văn học Việt Nam trong nước, hay quảng bá, giới thiệu các lí thuyết, trào lưu, trường phái văn học…, dịch thuật đã tạo nên môi trường thuận lợi cho quá trình tiếp cận, hiểu biết về nhau của cộng đồng tiếp nhận trong và ngoài nước. Nguyen Quy Duc cùng với John Balaban đã dịch truyện của Hồ Anh Thái, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thân, Lê Minh Khuê… (Vietnam: A Traveler’s Literary Companion, 1996). Wayne Karlin và Trần Hoài Bắc dịch truyện của Hồ Anh Thái (Behind the Red Mist: Short Fiction by Ho Anh Thai, 1998). Trong nhịp điệu mới này, cần phải ghi nhận những nhà nghiên cứu nước ngoài có hứng thú và tấm lòng với văn học Việt Nam như John Balaban (dịch ca dao Việt Nam, thơ Hồ Xuân Hương…), Peter Zinoman (dịch Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, nghiên cứu về Nhân văn – Giai phẩm…) Nhìn lại, từ giữa những năm 1980, khi luồng gió đổi mới xuất hiện, giao lưu văn hoá, văn học giữa các nhà văn Việt Nam trong nước và hải ngoại khởi sắc, các nhà văn gốc Việt bắt đầu dịch sang tiếng Anh những tác phẩm của các nhà văn Việt Nam. Năm 1995, tuyển tập truyện ngắn dịch sang tiếng Anh do Truong Vu cùng với Wayne Karlin thực hiện được xuất bản là The Other Side of Heaven: Post War Fiction by Vietnam and American Writers. Tuyển tập bao gồm nhiều truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam và Mĩ viết sau chiến tranh như Nguyễn Mộng Giác, Andrew Lam, Lai Thanh Ha… Trong những động thái có tính không biên giới này, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một dẫn chứng tiêu biểu cho quá trình giới thiệu văn học trong nước ra thế giới bằng nỗ lực của các dịch giả hải ngoại và nước ngoài. Các tác phẩm văn học tiếng Việt tái sinh trong môi trường ngôn ngữ mới, văn hóa mới cho thấy văn học dịch ở hải ngoại trở thành một cầu nối không chỉ của cộng đồng người Việt xa quê hương với trong nước mà rộng hơn là cộng đồng văn chương thế giới với Việt Nam.

Văn học di dân – khắc khoải giữa hai chiều không gian

Trước đây, vì một số lí do khách quan, văn học di dân chưa được đón nhận nhiều ở nước ta. Trong bối cảnh “văn chương không biên giới” như hiện nay, chúng ta đã có cái nhìn cởi mở hơn, nền văn học dân tộc sẵn sàng “dang tay chào đón” một bộ phận không thể tách rời. Những tác phẩm văn học Việt Nam ở hải ngoại hoặc những tác phẩm không phải viết bằng tiếng Việt của các nhà văn gốc Việt cũng được xem như một sắc thái văn hóa Việt Nam ở các nước sở tại.

Linda Lê tự nhận mình là một “nhà văn vô xứ”, hay “kẻ không nhà” (unhoused). Cô để tâm hồn mình trôi vô định giữa hai khoảng không gian: quê gốc và trú xứ. Ở không gian nào, những người như Linda Lê cũng cảm thấy lạc lõng và cô đơn. Bên cạnh những kỉ niệm êm đềm của tuổi thơ, quê gốc còn gắn với ẩn ức, nỗi cô đơn, mất mát. Ở không gian này, họ quay quắt nhớ nhung, nhưng nếu có cơ hội hồi hương, họ lại chối từ. Còn trong không gian thứ hai, họ luôn bị đòi hỏi một nỗ lực quá lớn, với xuất phát điểm là hai bàn tay trắng. Các tác phẩm của họ bộc lộ nhiều nỗi bất an, chìm đắm trong đau thương, giằng xé, khi mà nghiêng về bên này là nỗi đau, nghiêng về bên kia lại là sự cô quạnh. Nhân vật người cậu trong tác phẩm Vu khống của Linda Lê là một ví dụ khi lựa chọn bệnh điên để cự tuyệt với gia đình, để được cô đơn và thoát khỏi những ám ảnh về gia đình nhiều rắc rối và tàn nhẫn.

Trong phần lớn các tác phẩm của dòng văn học di dân, không khó để nhận ra những kí ức vụn gãy, rạn nứt, thiếu hụt mảnh đất quê hương của các tác giả. Bởi vì đã từng mất đi hoặc không có được, nên họ ra sức níu giữ và tái hiện chúng, từ sự vui sướng, hạnh phúc đến đau đớn, phũ phàng. Các nhân vật trong tác phẩm văn học di dân luôn để tâm hồn mình trôi vô định ở một nơi chốn nào đó mà không phải là không gian xác định. Họ phải đối mặt với nỗi niềm tuyệt vọng từng phút từng giây. Đặt chân lên một miền đất hứa mới mẻ là họ phải bỏ lại quá khứ và quê hương phía sau lưng. Tình thế này ta bắt gặp ở Monique Truong, trong tác phẩm Sách muối. Người đọc không nhìn thấy những cảnh đẫm máu, chết chóc như trong những tác phẩm viết về chiến tranh khác, bởi tác giả đã khai thác cuộc sống dưới góc độ lương tri con người. Đó là lương tri của những người trong và sau chiến tranh, đồng thời cũng là những người di cư đang vật lộn với cuộc sống hàng ngày của chính mình. Một nền văn học di dân có thể là phương tiện, cũng có thể là cách ghi chép lại lịch sử của những mảnh đời và số phận khác nhau, hoặc giản dị hơn, là một biểu tượng của đời sống. Nhà văn và trang viết của họ, dù là di cư địa lí hay ngôn ngữ, vẫn đang bền bỉ, khắc khoải với một đời sống riêng giữa những khoảng không gian đầy ám ảnh. Đó có thể là một hạt mầm được ươm thêm vào văn đàn Việt Nam. Nó không chỉ làm giàu cho văn học nước nhà, mà còn làm phong phú thêm cho nền văn hoá của đất nước họ đang sống.

Văn học di dân ngày nay có thể vẫn còn gây nhiều tranh cãi liên quan đến tính địa-chính trị hay quan điểm cá nhân, nhưng không thể phủ nhận, trong những trang viết của bộ phận văn học này, bản sắc dân tộc vẫn giữ vai trò cốt yếu, đã và đang là một tiếng nói cần được lắng nghe nhiều hơn trong không gian nghiên cứu phê bình đương đại. Đó không chỉ là câu chuyện về tác phẩm nghệ thuật, mà còn là về cuộc đời, về số phận con người.

Theo Thư Vũ/VNQĐ

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Valentina Novkovich (Cộng hòa Serbia)
Nhà thơ Valentina Novkovich, đồng thời là nhà văn, dịch giả văn học, nhà báo của Cộng hòa Serbia. Chị tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn học Nga (ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh). Đã công bố thơ và văn xuôi trên nhiều tạp chí ở Serbia, như Književne novine, Trag, Književni pregled, Brankovina, Buktinja, Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale; và trên các tạp chí điện tử Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolod ở Nga, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Ba Lan, Romania, Macedonia, Kazakhstan.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm