- Lý luận - Phê bình
- Về một vài hiện tượng văn học trong 50 năm qua (1975-2025)
Về một vài hiện tượng văn học trong 50 năm qua (1975-2025)
Bùi Công Thuấn
Khi một tác phẩm, một tác giả, một sự kiện, một trào lưu văn học xuất hiện có sức tác động, lôi cuốn và tập hợp sự chú ý của công chúng, nó tạo nên một hiện tượng văn học. Có hiện tượng tích cực, nhưng cũng có những hiện tượng gây cãi gay gắt. Dẫu thế nào, những hiện tượng văn học cũng là dấu chỉ sức khỏe của một nền văn học đang vận động về phiá trước.
Ảnh minh họa
- “Trò chuyện với hoa thủy tiên”
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng. Ông đóng góp tích cực vào sự đổi mới văn học sau 1975 khi từ bỏ Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và trình làng một cách viết mới. Ông phối hợp cách kể chuyện dân gian với lối trình thuật của Kinh thánh theo phong cách truyện chương hồi, và đặc biệt ở bút pháp “đeo mặt nạ”. Khi xuất hiện, Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng văn học với Tướng về hưu, Kiếm sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết.
“Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn” là một bài viết của Nguyễn Huy Thiệp năm 2004. Trong tiểu mục: “Cái khó của nghề văn thời nay” bài viết có đoạn: “Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… "vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả. Giai thoại có một nhà thơ nói về tình cảnh thơ ở trong bài thơ sau đây (tôi đã đưa chuyện này vào trong tiểu thuyết của tôi vì nó quá hay) khá tiêu biểu cho thực tế đó: "Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/ Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn/ Hôm nay lại bảo: Dí l… vào thơ!", tôi cũng không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với thơ nhưng quả thực trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa.
Tôi biết sẽ có nhiều người phản ứng lại điều tôi nói "trắng phớ" ra như thế nhưng ở nó là thực tế. Tôi chỉ nói ra một thực tế "tàn nhẫn" mà mọi người vẫn tránh né hoặc "không nỡ" nói ra mà thôi. Đã đến lúc người ta phải nhìn vào thực tế để thúc đẩy văn học cũng như thúc đẩy xã hội phát triển”.
Ông đã nói đúng, đã “đánh” vào đúng cái điểm yếu nhất của một tổ chức văn học. Tất nhiên ông đã phải nhận lại những “phản đòn” dữ dội trong công luận về những gì ông “nói trắng phớ ra”.
Thực chất của vấn đề là gì? Nguyễn Huy Thiệp đã không công nhận thực tế này: Hội Nhà văn Việt Nam có những hội viên chuyên nghiệp và có những hội viên của văn nghệ quần chúng.
Phát triển văn nghệ quần chúng là một nhiệm vụ quan trọng của Hội Nhà văn. Quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị là: “Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời với tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp” (Nghi quyết 23 BCT. Ngày 16/6/2008).
Nguyễn Huy Thiệp đã đánh đồng tất cả, thành ra ông mới nhận định về các hội viên Hội Nhà văn “hầu hết đều… "vô học", tự phát mà thành danh”. Ngày nay, nhiều người vẫn ta thán về hiện tượng bình dân hóa thơ ca.
Hiện nay, Hội Nhà văn Việt Nam có trên 1000 hội viên, hầu hết đều xuất thân từ văn nghệ quần chúng. Tìm đâu ra được những hội viên tài năng xuất chúng như Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều…
Nhưng vấn đề Nguyễn Huy Thiệp đặt ra là làm thế nào để xây dựng một đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp thì Hội Nhà văn vẫn chưa thực hiện được.
2.Internet, văn chương mạng trong nước và ngoài nước.
Ngày nay (2024), những vấn đề về văn chương mạng (văn chương đăng trên các trang mạng xã hội, các blog cá nhân) đã trở nên bình thường như một sinh hoạt tự nhiên. Hiện tượng “văn chương mạng”, nhà nhà làm blog đã “chìm” xuống. Văn chương giấy (in tác phẩm) vẫn có giá trị pháp lý hơn.
Nhưng ở cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, khi trong nước, có rất ít các trang văn chương mạng thì những trang văn chương mạng hải ngoại chiếm lĩnh “thị trường”.
Có sức hút và có ảnh hưởng đáng kể là các trang: hopluu.net, tienve.org, talawas.org; damau.org… Tất nhiên những trang mạng hải ngoại đăng bài của các tác giả sống ở nước ngoài. nhưng nhiều tác giả trong nước cũng đã tham gia các diễn đàn này. Bởi ở trong nước, không có chỗ đăng bài. Các trang mạng này có ý thức đối lập về chính trị, tư tưởng, nghệ thuật với thực tại chính trị, văn học trong nước, qua việc trình bày trực tiếp các quan điểm, các bài viết, các tiếng nói khác biệt với quan điểm văn học trong nước, mặc dù có trang đề rõ “Văn chương không biên giới” (Litterature Without Borders).
Thực tra, trên các trang mạng hải ngoại, có nhiều bài nghiên cứu học thuật, nhiều thông tin về sinh hoạt văn học của người Việt ở hải ngoại, những lưu trữ về văn học miền Nam trước 1975, và đặc biệt, những bài giới thiệu các trào lưu văn học thế giới đương đại, những tranh luận học thuật. Song do tính phức tạp về tư tưởng, những trang mạng này có thể gây ra những ảnh hưởng đối với một bộ phận tác giả nào đó trong nước. Chẳng hạn, ảnh hưởng của trào lưu Hậu Hiện đại đối với người trẻ trong nước, thơ của nhóm Mở Miệng (2002), Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu năm 2005, …
Ngày nay nhiều trang văn học ở hải ngoại đã chết vì số lượng độc giả tiếng Việt giảm nhiều, và bởi ở trong nước đã có quá nhiều trang văn học đăng bài.
Những trang vanvn.vn; vanchuongthanhphohochiminh.vn; trannhuong.org;trieuxuan.info; tạpchisonghuong.com; vanviet.info; vanchuongviet.org;…là những trang khá chuyên nghiệp. Các trang này phong phú về bài vở, đăng bài nhanh và có cái nhìn rộng mở. Nhiều trang có phần lưu trữ tốt, giúp ích cho người nghiên cứu văn học. Mỗi Hội Văn học nghệ thuật địa phương cũng có một trang riêng đăng tải sinh hoạt văn nghệ địa phương. Trang Vanvn có thế giá hơn, vì là trang của Hội Nhà văn Việt Nam.
- Luận văn - Đỗ Thị Thoan
Luận văn “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” là luận văn Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan năm 2010 do PGS.TS. Nguyễn Thị Bình hướng dẫn (bản hiện lưu tại Thư viện Ðại học Sư phạm Hà Nội có số V-LA1/4784 - Luận văn). Hội đồng chấm luận văn lần thứ nhất bao gồm PGS. Nguyễn Văn Long, TS. Chu Văn Sơn, PGS. TS. Ngô Văn Giá, TS. Nguyễn Văn Phượng và PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp được thành lập theo quyết định số 7460/QĐ-ĐHSPHN đánh giá luận văn ở mức xuất sắc và cho điểm tuyệt đối (10/10).
Tại Hội nghị Lý luận-Phê bình văn học lần thứ III (đầu tháng 6-2013 tại Tam Đảo), đã có nhiều ý kiến phê phán khá gay gắt đối với bản luận văn này (Chu Giang). Mặc dù ngày 26/7/2013, GS. Trần Đình Sử lại cho rằng “Cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ”. Ông nhận định cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan rầm rộ khắp cả nước là “một cách hành xử quá nóng vội”.
Sau đó một hội đồng thẩm định khác được thành lập gồm PGS.TS Đoàn Đức Phương, GS. Đặng Thanh Lê, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, PGS.TS Lê Quang Hưng và PGS.TS Phạm Duy Đức.
Ngày 14/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 708/ QĐ-ĐHSPHN về việc thu hồi bằng thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan.
Đây là một hiện tượng học thuật gây tranh cãi. Vấn đề nằm ở chỗ đã có hai hội đồng thẩm định luận văn với các kết quả khác nhau, từ đây gây ra một cuộc chiến quyết liệt. Một bên dựa trên quyền tự do học thuật, quyền nghiên cứu khoa học để bênh vự Đỗ Thị Thoan. Một bên nhìn luận văn của Đỗ Thị Thoan là hành động chính trị có mục đích lật đổ. Trong luận văn, Đỗ Thị Thoan cũng nói thẳng ra mục đích chính trị của mình [[1]].
Có ý kiến cho rằng, người ta mưu toan biến trường hợp “Luận văn” này thành một vụ “Nhân văn Giai phẩm” thứ hai, nhưng điều này bất thành. Có một sự thật là, Đỗ Thị Thoan muốn dùng lý thuyết trung tâm-ngoại vi, và thuyết về cái bên Lề, cái Khác với mục đích “lật đổ”. Đỗ Thị Thoan khẳng định: “Nhìn trên diện rộng, giải trung tâm trong văn học Việt Nam cũng đồng nghĩa với quá trình ngoại vi hóa, hay ngoại vi hóa là để giải trung tâm văn học dòng chính, giải trung tâm cái chính thống”. Và cái chính thống ấy là: “...sự lãnh đạo của Đảng...; Hội Nhà Văn, báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Nhà nước. Chính thống trong nhiều năm là nói theo ý thức hệ chính thống. Nó trở nên già cỗi và trở thành lực cản”.
Việc Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội thu hồi bằng Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan là một hành động chính trị có tính tất yếu.
- Những tác phẩm “có vấn đề”
Những tác phẩm gọi là “có vấn đề”, thực ra là cách nói về mối quan hệ giữa tác phẩm văn học với chính trị. Vấn đề Văn nghệ và chính trị đã được đặt ra và giải quyết ngay từ Báo cáo Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam của Trường Chinh (1948).
Bởi vì sự ổn định chính trị của đất nước là yếu tố tiên quyết để phát triển xã hội, và nhà văn là “chiến sĩ” đứng trong tổ chức của Đảng, anh ta phải thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Ngày nay nhìn lại những tác phẩm “có vấn đề”, người đọc có thể nhận ra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị là yêu cầu, là tiêu chí truốc hết của một tác phẩm.
“Vấn đề” nằm ở chỗ, quyền quyết định nằm trong tay người thẩm định tác phẩm. Chẳng hạn, tại sao có sự đánh giá khác nhau giữa hai hội đồng khoa học của trường Đại học Sư phạm Hà Nội về Luận văn của Đỗ Thị Thoan?
Thực ra “vấn đề” còn xuất phát từ những góc nhìn khác nhau về tác phẩm. Ở Việt Nam, nhiều thập kỷ văn học được nhìn theo Phản ánh luận của Lênin, và theo quan điểm của Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa: tác phẩm văn học phải “phản ánh hiện thực trong qua trình phát triển cách mạng, kết hợp với mãng mạn cách mạng, thông qua điển hình hóa, làm cho người đọc thất trước được tương lai”. Cách nhìn này không chấp nhận phần “hiện thực không cách mạng”, và tranh cãi xuất nổ ra từ sự khác biệt về quan điểm.
Xin lược qua vài trường hợp:
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn cho biết: “Những cuốn Cù lao Tràm, Đứng trước biển,(1985) đụng chạm vào những vấn đề cốt lõi của sự trì trệ, thói quan liêu của xã hội thời đó. Tôi bị “đánh” “lên bờ xuống ruộng”[[2]].
Bút ký “Cái đêm hôm ấy… đêm gì” của nhà văn Phùng Gia Lộc đăng trên báo Văn Nghệ
1987[[3]] đã tạo nên một “cơn địa chấn” góp phần đẩy nhanh công cuộc đổi mới sau Đại hội Đảng lần thứ 6.
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiền tranh (1987) của Bảo Ninh, tuy được giải thưởng của Hội Nhà văn năm 1991, nhưng đến nay vẫn chưa hết gây tranh cãi.[[4]].
Truyện ngắn Linh nghiệm của tác giả Trần Huy Quang đăng trên Văn nghệ tháng 7/1992.
“chỉ 4 ngày sau khi số báo này ra mắt, nó liền bị thu hồi và có lệnh hủy”[[5]].
Tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (Nxb Thanh Niên. 2000) đã bị thu hồi và tiêu hủy vì đã vi phạm khoản 1 và 2, điều 33, Luật xuất bản… [[6]]
Báo cáo của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cà Mau về truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư kết luận “truyện ngắn Cánh đồng bất tận thiếu tính giáo dục cho xã hội, giáo dục con người và thiếu tính định hướng chân - thiện - mỹ để con người vươn tới. Cho nên Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đề nghị Hội Văn học nghệ thuật thường xuyên có định hướng chính trị cho hội viên (trong đó có Nguyễn Ngọc Tư) được học tập lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao ý thức trách nhiệm của người cầm bút cách mạng”[[7]]
Tiểu thuyết Mối Chúa của Đảng Khấu (Tạ Duy Anh) bị Cục xuất bản đình chỉ phát hành (2017) với lý do: "Nội dung cuốn sách phản ánh những vấn đề nổi cộm trong xã hội hiện nay. Tác giả đã vạch trần những tiêu cực và bất công trong xã hội. Tuy nhiên, phần lớn các nhân vật trong tác phẩm từ thấp đến cao đều đen tối, vô vọng, đau đớn./ Qua lời kể của các nhân vật, hiện lên những thế lực hắc ám, một xã hội hầu như chỉ được chỉ huy bởi những kẻ ngu dốt, tham lam, thủ đoạn. Toàn bộ hệ thống bộ máy chính quyền bộc lộ sự tàn nhẫn, vô đạo, đàn áp nông dân, giết hại lẫn nhau, giết người chống đối chỉ vì tiền…)[[8]].
Hầu như các tác phẩm “có vấn đề” đều viết về “hiện thực không cách mạng”, không có lãng mạn cách mạng. Trái lại, cảm hứng phê phán là chủ đạo, nhưng người ta gọi tránh đi là văn học phản tỉnh.
Hình như nhà văn có khuynh hướng chạy theo thị hiếu của công chúng khi viết về các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Ngày nay, xu hướng ấy đã tàn lụi dần. Thời của Thánh thần (Hoàng Minh Tường, 2008), Kiến Chuột và Ruổi (Nguyễn Quang Lập, 2018), Mối chúa (Đảng Khấu. 2018), không gây được ấn tượng bởi vì thông tin báo chí về những vụ án hơn một triệu tỷ VN đồng như vụ án Vạn Thịnh Phát… “nóng” hơn tiểu thuyết.
Nhà văn Tạ Duy Anh (Lão Tạ-Đãng Khấu) than thở: “Chưa bao giờ tác phẩm hư cấu kém tác dụng như giai đoạn này. Những tác phẩm hư cấu hiện nay khiến cho người viết cảm thấy tuyệt vọng về tác dụng của nó với xã hội. Có hôm Bình Phương (Nhà văn Nguyễn Bình Phương-pv) đọc xong cuốn này gọi điện cho tôi. Tôi bảo mình cứ hì hục làm suốt ngày đêm, viết xong một cuốn sách nhọc vô cùng nhưng đến khi nghĩ lại thấy nó chả tác dụng gì, chả tác động đến ai. Ông Phương động viên mình: Thôi thì mình cứ làm, rồi sau cũng sẽ có một số người đọc, để tìm hiểu đời sống ngày hôm nay chẳng hạn”[[9]].
- Cái gọi là “trào lưu Hậu hiện đại”(Postmodernism) ở Việt Nam
Cho đến nay (2024) những ồn ào về cái gọi là “Hậu hiện đại” ở Việt Nam đã không còn là “hiện tượng” thu hút nhiều sự quan tâm như những năm đầu thế kỷ XXI.
Ngày ấy, hình như ngày ấy, người ta mặc định rằng, cứ phải là “Hậu hiện đại” thì văn học Việt Nam mới không lạc hậu, mới là nền văn học theo kịp thế giới, và vì thế người ta gán cho những tác giả, tác phẩm không liên quan gì với Hậu Hiện đại là văn chương Hậu hiện đại (chẳng hạn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài…).
Giới học thuật nỗ lực tìm hiểu, dịch thuật và giới thiệu về mặt lý thuyết “Chủ nghĩa Hậu hiện đại”. Nhiều người trong số họ có thế giá học thuật. Và tùy theo trình độ hiểu những tài liệu nước ngoài viết về Hậu Hiện đại mà họ đọc được, mỗi người có những cách kiến giải khác nhau. Đã có một sự “tù mù” học thuật về Hậu Hiện đại trên văn đàn Việt. Hình như Hậu Hiện đại ở Việt Nam, được hiểu như thể “thầy bói sờ voi”…
Đó là bài viết về Hậu Hiện đại của: Bùi Văn Nam Sơn, Phương Lựu, Lê Huy Bắc, Nguyễn Minh Quân, Thụy Khuê, Nguyễn Văn Dân, Lã Nguyên, Hoàng Ngọc Tuấn, Nhật Chiêu, Ngô Tự Lập, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Hồng Dũng, Phùng Gia Thế, Nguyễn Ước, Nguyễn Đức Hiệp, Tạ Văn Tịnh OP, Thích Thanh Thắng, Bùi Quang Thắng, Nghiêm Tuấn Hùng, Đoàn Minh Tâm, Đông La, Khổng Đức, Ngô Văn Tạo, Nguyễn Đăng Thường, Lê Anh Hoài, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quỳnh Anh, Lewis Barry (Hoàng Ngọc Tuấn dịch), Skornev (Ngân Xuyên dịch), Alan Kirby (Chân Phương dịch), Richard Rorty (Trần Văn Đoàn dịch), Iving Sandler (Như Huy dịch), Lyotard (Ngân xuyên dịch), Chu Lập Nguyên (Đỗ Văn Hiểu dịch), Stickism (Phan Nhiên Hạo dịch); Nguyễn Thị Lam Anh dịch “8. Postmodernist theories”- Pearson Longman. ..
Các nhà văn, nhà thơ thế hệ “già: (những nhà văn bước ra từ kháng chiến), không bận tâm gì đến bất cứ lý thuyết nào. Trong Hội nghị Lý luận phê bình lần thứ II tại Đồ Sơn, nhà văn Nguyễn Khắc Phê phát biểu: “trong văn chương, không có chuyện “chủ nghĩa” nào hết! ”
Đối với những người viết trẻ, có một sự vồ vập, háo hức nào đó khi bắt chước các tác giả người Việt hải ngoại (Đinh Linh, Đỗ Kh, Trần Vũ, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Hoàng Bắc…). Và tùy theo cách họ hiểu Hậu Hiện đại là gì, sáng tác của người trẻ là rất khác nhau. Người ta ra sức “giải thiêng” các “Đại tự sự” ở Việt Nam. Có người “thực hành” những thứ “thơ không thơ, thơ rác, thơ dơ, thơ nghĩa địa” mà thực chất là mượn cái gọi là “giải trung tâm”(ngoại biên-trung tâm) để “lật đổ” tất cả những gì họ muốn lật đổ. Bài thơ Lỗ Thủng lịch sử (2003) của Nguyễn Hữu Hồng Minh [[10]] đã bị phản đối suốt nhiều năm qua. Hậu Hiện đại với tư cách là một trào lưu đa nguyên về tư tưởng không được chấp nhận ở Việt Nam.
Tất nhiên cũng có những cây bút trẻ thực tâm muốn đổi mới văn chương Việt bằng cách vận dụng một vài ý tưởng và thủ pháp nghệ thuật của Hâu Hiện đại, và họ có những thành công nhất định. Chẳng hạn, thơ Văn Cầm Hải, Mai Văn Phấn, thơ Nguyễn Thúy Hằng, tiểu thuyết Ngược mặt trời và Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín của Nguyễn Một…
Nói cho công bằng, văn chương Việt Nam 50 năm qua không chỉ tiếp thu Hậu Hiện đại mà còn thử nghiệm nhiều trào lưu nghệ thuật khác của thế giới. Chẳng hạn nghệ thuật Siêu thực (Surréalisme) trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo…, những thủ pháp của nghệ thuật Hiện thực huyền ảo (Magic realism) trong tiểu thuyết, như Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Ngồi, Những đứa trẻ chết già (Nguyễn Bình Phương), Ngược mặt trời của Nguyễn Một)…khuynh hướng hiện sinh: Thế giới xô lệch (Bích Ngân), Giữa dòng chảy lạc, Giữa vòng vây trần gian (Nguyễn Danh Lam); tiểu thuyết lịch sử: Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hội thề (Nguyễn Quang Thân),…khuynh hướng nữ quyền (Feminism) trong tiểu thuyết của Y Ban, Thuận, Đoàn Minh Phượng, …
- Hiện tượng “đạo” văn, “đạo” thơ
Có lẽ hiện tượng làm nhức nhối đời sống văn học trong 50 năm qua là hiện tượng “đạo” thơ, “đạo” văn. Thật không hiểu nổi tại sao cả những người đã có danh trong xã hội mà vẫn vi phạm! Đã có những vụ kiện ra tòa. Đã có những hội thảo về thơ, sau đó ban tổ chức phải “rút kinh nghiệm”.
Đây là thông báo Ban Thường vụ Hội Nhà văn về hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà văn tổ chức ngày 8/8/2012 tại Hội trường Hội Nhà văn Việt Nam:
“Ban Thường vụ Hội Nhà văn nhận thấy chuyện đạo văn là một trong những vấn đề hệ trọng liên quan đến danh dự của nhà văn mà trường hợp cụ thể ở đây là nhà thơ Hoàng Quang Thuận. Thông tin bước đầu trên báo chí cho thấy: ông Trần Trương, người được cho là bị nhà thơ Hoàng Quang Thuận đạo văn đã trả lời báo chí khẳng định không có việc này. Tuy vậy, với trách nhiệm đối với tư cách hội viên của mình, Hội Nhà văn tiếp tục lắng nghe ý kiến của dư luận, đặc biệt là của những người liên quan trực tiếp đến vấn đề đó là nhà thơ Hoàng Quang Thuận và ông Trần Trương. Đồng thời, Thường vụ Hội Nhà văn sẽ chỉ đạo trực tiếp Ban Kiểm tra của Hội thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm của mình khi có yêu cầu để có kết luận về vấn đề trên một cách thỏa đáng và công bằng dựa trên luật pháp.”
Sẹo độc lập là tập thơ đạt giải Hội Nhà văn của Phan Huyền Thư. Bài Bạch lộ (Độc ẩm với Lã Bất Vi) trong tập Sẹo độc lập đã "đạo" lại bài thơ Buổi sáng của tác giả Phan Ngọc Thường Đoan. Sau những tranh cãi qua lại, Phan Huyền Thư đã 2 lần gửi thư xin lỗi Phan Ngọc Thường Đoan và trả giải thưởng lại cho Hội nhà văn [[11]].
Đọc bài “Những vụ đạo văn thơ “nổi tiếng” Đồng bằng sông Cửi Long ngày 26,10,2015 của Lê Xuân-Ngọc Duyên, tôi thực sự không sao hiểu được nhân cách của những người ngang nhiên lấy thơ người khác gửi đăng báo, tạp chí và dự thi. Đó là ông Cao Phú Cường, một giáo viên dạy văn THCS ở An Giang; là ông Trương Thanh Liêm, Chủ tịch Hội Nhà văn TP Cần Thơ. Vì đạo văn, ông bị “cho thôi chức” vào đầu năm 2012. “Ông Liêm là Phó Ban Tuyên giáo Huyện ủy Phong Điền (Cần Thơ) được điều về Liên hiệp các Hội VH&NT thành phố Cần Thơ làm Chánh văn phòng vào tháng 9/2011, đến tháng 11 cùng năm, được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn”[[12]].
Phải chăng cái danh “nhà thơ”, “nhà văn” là hết sức sang trọng, cao quý và hấp dẫn khiến cho những người “háo danh” nhưng “tài hèn sức mọn” đã phải ăn cắp thơ người khác làm thơ của mình. Luật pháp xử lý về những trường hợp “đạo thơ” chưa nghiêm minh, nên chỉ vài trường hợp được nhận dạng, còn lại tác giả thực sự của thơ đành phải chịu ngậm ngùi. Tôi nghĩ, nếu những người “đạo” văn là hội viên các Hội Văn học nghệ thuật, thì Hội cần khai trừ khỏi Hội.
- Để suy gẫm
Có thể kể thêm vài hiện tượng nữa để suy gẫm.
Hiện tượng về sự “mất giá” của các giải thưởng văn chương. Điều này đã được nói nhiều nhưng thời gian qua đi, hiện tượng vẫn chưa được khắc phục. Nguyên nhân là việc chọn trao giải cho các tác phẩm “làng nhàng”, kiểu như trao giải cuộc thi thơ 2019 – 2020 của báo Văn nghệ, cho bài thơ Mẹ tôi chửi kẻ trộm của Tòng Văn Hân (ngày 09/4/2021); và nhiều giải văn chương đã bị thương mại hóa. Chẳng hạn, cuộc thi Chuyện của những dòng sông của báo Viêt Nam net từ 05/3 đến 30/6/2024. Mục đích cuộc thi là “để độc giả có thể chia sẻ những câu chuyện đẹp, thể hiện mong muốn, ý tưởng thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững trên các dòng sông và cộng đồng xung quanh”. Thực ra không phải lỗi của Ban tổ chức, mà lỗi của nền văn học không có tác phẩm vượt trội. Hiện nay văn học đang trong giai đoạn thiếu tài năng, thì dù có tổ chức bao nhiêu cuộc thi cũng không tìm đâu ra tác phẩm hay. Việc thương mại hóa các giải thưởng có thể giết chết văn chương, bởi người tham gia các giải thưởng như thế chỉ có mục đích duy nhất là kiếm tiền thưởng, đơn vị tổ chức chỉ mượn văn chương để quảng cáo thương hiệu, không phải mục đích văn chương.
Đã có lúc văn đàn xôn xao về việc nhà văn Việt Nam nào xứng đáng đề cử trao giải Nobel văn chương. Năm 2021, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, thông báo ông nhận được thư mời đề cử giải Nobel và ông sẽ là người đưa ra những ứng viên cho Hội đồng Nobel tuyển chọn. Người ta nhắc đến một vài tên tuổi như Mai Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Bảo Ninh…Nhưng đến nay không còn nghe nhắc đến việc đề cử ai dự giải Nobel văn học nữa. Quy chế của Quỹ Nobel hạn chế tiết lộ thông tin về các đề cử, dù công khai hay riêng tư, thời hạn bảo mật là 50 năm. Các hạn chế này bao gồm thông tin về người đề cử, người được đề cử, các cuộc điều tra, tìm hiểu và ý kiến liên quan đến việc trao giải thưởng [[13]]. Ai cũng biết cái khó của văn học Việt là rất ít tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, và càng ít hơn nữa các tác giả Việt trong nước được đọc và biết đến ở nước ngoài. Văn học Việt không thể cạnh tranh với văn học của các nước khác vì chúng ta không có tác phẩm lớn, không có nhà văn lớn. Văn học Việt Nam chủ yếu phục vụ nhiệm vụ chính trị trong nước, không có tầm vóc tư tưởng và nghệ thuật tầm nhân loại.
Cũng đã có một thời vấn đề sáng tác những “tác phẩm lớn” được đặt ra ở nhiều hội nghị, hội thảo, trong các Nghị quyết, nhưng đến nay Văn học Việt Nam chưa có tác phẩm lớn, chưa có nhà văn lớn. Việc xác định thế nào là “tác phẩm lớn” vẫn còn tranh cãi: tác phẩm lớn theo tiêu chuẩn văn học thế giới hay theo tiêu chuẩn chính trị Việt? Nếu lấy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị thì văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm lớn: những bộ sử thi chẳng hạn (Những bộ tiểu thuyết sử thi của Hoàng Văn Bổn), có nhiều nhà văn đạt giải thưởng lớn là Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhưng nếu lấy tiêu chí văn học thế giới, tác phẩm lớn là tác phẩm đặt ra những vấn đề có tầm vóc nhân loại, một tác phẩm tư tưởng và có những đóng góp mới mẻ về nghệ thuật cho văn học thế giới (như R. Tagore, E. Hemingway…), được thế giới biết đến rộng rãi, thì văn học Việt Nam không có tác phẩm nào đạt đến tầm vóc ấy. Văn hóa Việt xưa nay coi trọng cái nhỏ bé, cái xinh xắn mà không chú trọng đến những cái vĩ đại, bởi thực tiễn dân tộc này phải chiến đấu chống kẻ thù xâm lược và chống bão lụt. Tài trí, sức lực cả dân tộc dồn vào để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Điều ấy là vĩ đại so với thế giới. Còn lại, trong cuộc sống bình thường, người Việt sống giản dị. Cho nên không thể so sánh Chùa Một Cột của Việt Nam với Vạn Lý Trường Thành của Trung quốc và tất nhiên văn học Việt không thể sánh với văn học Trung quốc và văn học Ấn độ về tầm vóc đồ sộ của tư tưởng và nghệ thuật. Có người cho rằng cần phải có “tự do” nhà văn mới có thể viết “tác phẩm lớn”. Vậy ở giai đoạn “đổi mới” (1986-2000) những tác phẩm nào xứng đáng đề cử giải Nobel? Và, tại sao, những nhà văn Việt ở hải ngoại, hoàn toàn “tự do”, nhưng không ai viết được tác phẩm nào vang danh thế giới? Trái lại, những đổi mới văn học đều xuất phát từ nhà văn trong nước. Vấn đề là, tài năng văn học là thiên phú, vì thế văn học Việt còn phải chờ nhiều thế hệ nữa.
Những “lùm xùm” về việc kết nạp nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh vào Hội Nhà văn năm 2021, và gần đây, lại “lùm xùm” việc ngưng kết nạp hội viên với bà Hương Lan của Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên nhân là vì những vướng mắc trong đời sống cá nhân và công việc của Ban tổ chức. Bà Hương Lan bị Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh ngưng kết nạp là vì có đơn của nhà thơ Nguyễn Trường Thanh - hội viên của Hội Nhà văn TPHCM, tố cáo bà Hương Lan vu khống ông “gạ tình” bà; trong khi đó, Bà Hương Lan cho rằng, ông Phạm Trung Tín đã nhắn tin, gọi điện tỏ ý “vòi vĩnh” tiền cảm ơn cho ông cũng như một số thành viên trong Ban Chấp hành sau khi được kết nạp[[14]]. Những việc như thế thực chất là sự mua bán khuất tất việc vào Hội. Nó làm đã làm mất đi những giá trị cao đẹp của nhà văn, mất lòng tin của mọi người vào các tổ chức Hội Nhà văn, và làm thất vọng công chúng yêu văn học.
Hiện tượng “đa năng” văn học không biết nên vui hay nên buồn.
Đó là hiện tượng một tác giả đang viết văn xuôi bỗng nổi hứng làm thơ, đăng được vài bài, in một tập thơ, được bạn bè ca ngợi bằng những lời có cánh, thế là nghiễm nhiên thành “nhà thơ nổi tiếng”. Nếu thực sự là một tài năng đa diện, như Nguyễn Đình thi, vừa là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà lý luận văn nghệ, có nhiều tác phẩm đóng góp cho sự phát triển văn học nghệ thuật dân tộc, được vậy thì quý biết mấy. Nhưng nếu ngược lại, khi không thể viết văn xuôi (tiểu thuyết) thì nhảy sang làm thơ, vì nghĩ làm thơ thì dễ (làm một bài thơ chỉ mất 30 phút trong khi viết một tiểu thuyết mất 3 năm), thì thật đáng buồn cho nền văn học. Nghĩa là tác giả ấy không biết mình có thực tài về thơ hay văn. Thế nên, dù viết thể loại nào cũng chỉ “làng nhàng”, không cất cánh được. Những nhà văn, nhà thơ có thực tài thì chỉ chuyên tâm một thể loại. Nam Cao, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Huy Thiệp trở thành bất tử ở thể loại truyện ngắn. Nói thực lòng, tôi hoài nghi mục đích sáng tác “đa thể loại” của các cây bút “đa năng”, hình như họ mưu cầu điều gì đó ngoài văn chương… Nhưng văn chương là một “nghề chơi” (“nghề chơi cũng lắm công phu”-Nguyễn Du-Truyện Kiều-câu 1201), ai múa được thì cứ ra sân khấu. Múa hay, múa đẹp thì người ta vỗ tay, mà múa dở, múa ngây ngô, khán giả cũng được tràng cười, vui đáo để! Nói như cụ Phan Khôi “Nắng được thì cứ nắng”!
Những điều ấy đáng để suy gẫm lắm thay!
Tháng 12/ 2024
B.C.T
[1] Bùi Công Thuấn-Luận văn Nhã Thuyên, hay sự thất bại của việc vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/03/03/luan-van-nha-thuyen-hay-su-that-bai-cua-viec-van-dung-ly-thuyet-trong-nghien-cuu/
[2] Duy Thông-Nguyễn Mạnh Tuấn-Nửa đời văn không thẻ hội viên.
https://nguoidothi.net.vn/nguyen-manh-tuan-nua-doi-van-khong-the-hoi-vien-2888.html
[3] Trung Hiếu-Đất nước qua 30 năm đổi mới-kỳ 2: Nhân chứng trong “Cái đêm hôm ấy…đêm gì”?
https://thanhnien.vn/dat-nuoc-qua-30-nam-doi-moi-ky-2-nhan-chung-trong-cai-dem-hom-ay-dem-gi-185533757.htm
[4] Nhà văn Nguyên Ngọc: “Nỗi buồn chiến tranh” góp phần làm cựu binh Việt - Mỹ gần nhau hơn
https://viettimes.vn/nha-van-nguyen-ngoc-noi-buon-chien-tranh-gop-phan-lam-cuu-binh-viet-my-gan-nhau-hon-post138401.html
[5] Lại Nguyên Ân
https://vanviet.info/tu-lieu/cc-tai-nan-van-chuong-duong-dai-4-truyen-ngan-linh-nghiem-cua-tran-huy-quang-v-mot-vu-n-van-nghe-ngay-sau-cao-tro-doi-moi/
[6] Thụy Khuê-Chuyện kể năm 2000- Ngày 16/3/2000, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT, đình chỉ phát hành và thu hồi, tiêu hủy cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn vì đã vi phạm khoản 1 và 2, điều 33, luật xuất bản… http://chimviet.free.fr/tacpham1/stt2/BNTAN.html
[7] Thoại Trúc-Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm điểm nghiêm khắc vì điều gì?(báo cáo (số 41-BC/TG, ngày 12/4/2006)
https://tuoitre.vn/nguyen-ngoc-tu-bi-kiem-diem-nghiem-khac-vi-dieu-gi-133791.htm
[8] Myli-Lý do tiểu thuyết Mối chúa của Tạ Duy Anh bị đình chỉ phát hành
https://danviet.vn/ly-do-tieu-thuyet-moi-chua-cua-ta-duy-anh-bi-dinh-chi-phat-hanh-7777807027.htm
[9] Đào Nguyên-Ồn ào quanh Mối Chúa
https://tienphong.vn/on-ao-quanh-moi-chua-post976891.tpo
[10] Nguyễn Hữu Hồng Minh-Lỗ thủng lịch sử
https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1512
[11] Phan Nhật Phi-Ba vụ đạo thơ khiến văn đàn sôi sục (23,10,2015)
https://znews.vn/3-vu-dao-tho-khien-van-dan-soi-suc-post592748.html
[12] Lê Xuân-Ngọc Duyên-Những vụ đạo thơ văn “nổi tiếng” Đồng bằng Sông Cửu Long
https://tienphong.vn/nhung-vu-dao-tho-van-noi-tieng-dbscl-post821898.tpo
[13] Hà Chi-Nhà văn nào của Việt Nam xứng đáng được giải Nobel
https://znews.vn/nha-van-nao-cua-viet-nam-xung-dang-duoc-giai-nobel-post1363545.html
[14] Đông Du-Kết luận của Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh về ồn ào kết nạp hội viên bà Hương Lan
https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/ket-luan-cua-hoi-nha-van-tphcm-ve-on-ao-ket-nap-hoi-vien-voi-ba-huong-lan-1360404.ldo