TIN TỨC

“Của tin còn một chút này làm ghi...”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
818 lượt xem

TRIỆU PHONG

Cầm trên tay cuốn Tuyển tập Nguyễn Khắc Thứ dày dạn, sang trọng, nhiều bạn đọc hết sức xúc động. Vì đây là một nhà văn lừng danh một thuở, nhưng đã vắng bóng trên văn đàn nửa thế kỷ nay.

Nhớ lại Giải thưởng văn nghệ 1951-1952, Võ Huy Tâm, Nguyễn Khắc Thứ, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng... là những nhà văn được trao những giải thưởng cao nhất : Giải nhất: tiểu thuyết Vùng mỏ của Võ Huy Tâm. Giải nhì: gồm 2 giải trao cho ký sự Trận Thanh Hương của Nguyễn Khắc Thứ; và tiểu thuyết Xung kích của Nguyễn Đình Thi. Giải ba: gồm 2 giải trao cho truyện ngắn Con đường sống của Minh Lộc; và ký sự Chiến thắng Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng.Giải khuyến khích: gồm 3 giải cho các tác phẩm truyện ngắn Đánh trận giặc lúa của Bùi Hiển; truyện Xây dựng của Nguyễn Khải; truyện Ông Cốc của Nguyễn Khắc Mẫn... Như vậy, xuất phát điểm ban đầu của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ là rất xuất sắc, giải thưởng của nền văn học kháng chiến đã ghi nhận ông là một trong những cây bút hàng đầu của văn nghệ Việt Nam giai đọan kháng chiến chống thực dân.

Vậy Nguyễn Khắc Thứ là ai? Và vì đâu ông đoạt Giải thưởng văn học cao quý này?

Nhà văn quân đội Nguyễn Khắc Thứ sinh năm 1921, quê quán thuộc thôn An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Một người bà con thân thiết của ông là nhà giáo Trương Quang Đệ viết về ông: “Nguyễn Khắc Thứ thuộc thế hệ những nhà văn thời kháng chiến chống Pháp. Từ thời còn là học sinh, Nguyễn Khắc Thứ đã say mê văn chương và đã sáng tác nhiều truyện dài, truyện ngắn, thơ ca. Khoảng năm 1948, khi giặc càn về quê nhà, gia đình anh phải buồn bã đem toàn bộ sách vở ra đốt, trong đó chúng tôi phát hiện nhiều bản thảo truyện ngắn và thơ ca của anh được viết tay nắn nót hoặc đánh máy. Kháng chiến bùng nổ, đường sắt, cầu cống, tàu xe bị phá bỏ, anh lên chiến khu Ba Lòng của tỉnh Quảng Trị và công tác tại Ban di cư tản cư của tỉnh. Khoảng năm 1949, anh ra công tác ở Nghệ Tĩnh thuộc vùng tự do, kết hợp với một việc riêng cũng không kém phần quan trọng là đưa người em con dì, sau này là NSƯT Tân Nhân, ra vùng tự do tiếp tục học tập… Ca sĩ  Tân Nhân lúc đó là nữ sinh Đồng Khánh (Huế), hoạt động nội thành bị lộ, phải rời thành phố lên khu kháng chiến. Sau đó, Nguyễn Khắc Thứ xin gia nhập quân đội, chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên”.

 Sau năm 1954, từ sư đoàn 325 Bình Trị Thiên, nhà văn Nguyễn Khắc Thứ được gọi về Trại viết anh hùng của Tổng Cục Chính trị. Nhà văn Nguyên Ngọc nhớ lại: “Bấy giờ Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua quân đội vừa họp ở Hà Nội. Tổng cục Chính trị gọi mỗi sư đoàn một người “biết viết” về Hà Nội để chia nhau viết về các Anh hùng vừa được tuyên dương. Hóa ra đấy là cuộc tập hợp để rồi sau đó sẽ hình thành cả một thế hệ những người cầm bút chủ lực được rèn luyện trong kháng chiến chống Pháp và bắt đầu chính thức bước vào văn học sau năm 1954-1955. Nguyễn Khải từ sư đoàn đồng bằng Bắc bộ lên, Phùng Quán, Nguyễn Khắc Thứ từ sư đoàn 325 Bình Trị Thiên ra, Hồ Phương từ sư đoàn 308 về, Nguyễn Trọng Oánh và Hải Hồ từ sư đoàn 304 Khu 4, Lý Đăng Cao từ phòng không, Hà Mậu Nhai từ sư đoàn 330 Nam bộ... Ít lâu sau, có thêm Hữu Mai từ Điện Biên Phủ, Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi từ sư đoàn 338 Nam bộ về... Tôi là người về sau cùng, một cây bút mới tập tò đôi ba bài bút ký vô danh, từ sư đoàn 324 Khu 5 cũng được gọi về vì có ai đó tình cờ giới thiệu. Lính mới toanh, cấp thấp nhất trong nhóm, còn hoàn toàn trắng tay, gặp ai cũng sợ. Bấy giờ Hồ Phương đã có Thư nhà, chúng tôi ở chiến trường Khu 5 xa thế mà cũng từng được đọc và phục lăn. Nguyễn Khắc Thứ đã có cả bộ tiểu thuyết Đất chuyển đồ sộ. Phùng Quán vừa xáo động văn đàn bằng Vượt Côn Đảo. Nguyễn Khải thì từng đoạt giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam, danh tiếng vang đến tận những chiến trường xa trong Nam của chúng tôi...”

Nhà văn Nguyễn Khải cũng viết về đội ngũ nhà văn trẻ quân đội những ngày tháng này: “Mãi đến giữa tháng 8 năm 55, sau ngày đình chiến, kết thúc cuộc chiến chống Pháp đúng một năm, chúng tôi mới được Phòng Văn nghệ gọi về Hà Nội viết truyện anh hùng. Đây là đi công tác, đi rồi về chứ không phải là thuyên chuyển công tác, đi rồi ở hẳn. Thôi được, cứ biết là được về Tổng cục mấy tháng, lên đó sẽ tính, biết đâu được trên yêu mà cho ở lại. Tôi được về Tổng cục Chính trị, được về Hà Nội như đang ở ao ngòi được ra sông cái, đầm lớn, việc gì cũng lạ, chuyện nào cũng vui. Hàng ngày tôi đều được cùng ngồi ăn, cùng trò chuyện với các các Thanh Tịnh, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, Xuân Miễn, Bích Lâm, Vũ Tú Nam, Từ Bích Hoàng, Vũ Cao, Mai Văn Hiến, Doãn Trung, Hà Mậu Nhai, Nguyễn Thuỵ Ứng, Ngọc Tự... Cùng lên Tổng cục với tôi đợt ấy có các anh: Hồ Phương, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khắc Thứ, Trần Cẩn, Mạc Phi, Vũ Sắc, Xuân Thiêm, Nguyễn Trọng Oánh, Lý Đăng Cao, Xuân Vũ, Minh Giang, Phác Văn. Ít lâu sau có thêm các anh: Hữu Mai, Hải Hồ, Ngô Thông, Nguyễn Ngọc Tấn. Rồi các anh Hoàng Cầm, Hoàng Yến, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện. Và ông Trần Dần. Ngày ấy hình như chỉ có tôi và anh Nguyên Ngọc là ngơ ngác hơn cả, vì chúng tôi là lính quân khu, lính địa phương. Còn các anh khác là lính chủ lực, lính các đại đoàn, họ thường gặp nhau, cùng làm việc với nhau mỗi lần Bộ Tổng mở chiến dịch lớn. Họ là bạn của nhau, xưng hô với nhau là ông tôi, cậu tớ, gọi nhau là thằng này thằng nọ. Còn tôi thì khác. Ai cũng đáng mặt đàn anh mình cả”.

Thầy giáo Trương Quang Đệ cho biết: “Vào những năm 1956-1957,  Nguyễn Khắc Thứ tham gia trại sáng tác của Tổng cục Chính trị viết về đề tài Anh hùng quân đội. Anh cho ra đời cuốn tiểu thuyết Đất chuyển, kể lại một câu chuyện có tính hiện thực, với những nhân vật có hồn, có tình người. Chỉ mấy tháng sau khi được xuất bản ở Việt Nam, Đất chuyển được một nhà văn Trung Quốc dịch sang Hoa văn với tên gọi Thổ địa hồi gia. Một truyện khác của anh, Bản án tử hình, được nhiều nước Đông Âu đăng lại trên các báo văn học, sau khi họ nhờ anh dịch ra tiếng Pháp làm cứ liệu trung gian…”. Sau giai đoạn ở trại viết, Nguyễn Khắc Thứ tiếp tục thăng hoa với nhiều tác phẩm ra đời: Phá kho bom Tân Sơn nhất, Bản án tử hình... được các nhà xuất bản xuất bản với số lương lớn, không cuốn nào đưới 10.000 bản, và một tên tuổi Nguyễn Khắc Thứ rất tỏa sáng lúc bấy giờ... Nguyễn Khắc Thứ thuộc lớp nhà văn đầu tiên có mặt tại Hội Nhà văn Việt Nam buổi đầu thành lập, ông trở thành Hội viên Hội nhà văn Việt Nam năm 1957.

Điều đáng tiếc rằng, sau giai đoạn rực rỡ này, cây bút Nguyễn Khắc Thứ dường như hòan toàn yên lặng trên văn  đàn, dù anh vẫn là một sĩ quan quân đội. Có một thời gian anh đi thực tế ở một nông trường, rồi sau đó về công tác ở Thư Viện Quân Đội mới được thành lập. Anh lặng lẽ, cần mẫn với công việc của mình, lấy sách bạn bè anh em làm vui chứ không viết thêm tác phẩm văn học nào. Những ngày ấy ở khu văn công Mai Dịch, người ta thường thấy một sĩ quan đã luống tuổi, đeo một chiếc kính lão dày cộm, ngày ngày chuyển sách cho các đơn vị ở chiến trường xa xôi. Ông lấy công việc này làm vui, làm nghĩa vụ của mình đóng góp cho chiến trường, cho những cây bút đàn em ông như nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh trong chiến trường Trị Thiên cùng anh em đang từng ngóng trông sách từ thư viện gửi vào. Đừng tưởng người lính trong chiến tranh chỉ cần súng ống và lương thực, họ cần, rất cần cả những vần thơ, trang sách truyện, thậm chí cả những bộ tiểu thuyết lừng danh thế giới làm sức mạnh tinh thần cho mình. Và chính những nhà văn như Nguyễn Khắc Thứ cần mẫn, bền bỉ làm công việc này, với tất cả tình yêu văn chương cũng như tình yêu chiến sĩ...

Cho đến nay, sau nửa thế kỷ, giai đoạn văn học bừng sáng một thuở với nhiều tác phẩm văn học xuất sắc của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ  mới được NXB Văn học tập hợp lại, ra mắt trong một bộ tuyển tập dày dặn, do nhà nước đặt hàng. Tuyển tập Nguyễn Khắc Thứ bìa cứng, dày 710 trang, gần như trọn bộ những sáng tác của ông: Từ Trận Thanh Hương, tiểu thuyết Đất chuyển, truyện dài Hẹn hò, tập truyện Phá kho bom Tân Sơn Nhất và tiểu thuyết Bản án tử hình. Đọc trọn bộ Tuyển tập Nguyễn Khắc Thứ này, người đọc thời nào cũng thấy hiện lên một gương mặt văn học tài hoa, kiến thức rộng mở, một giọng văn có cá tính và đặc biệt rất sắc sảo và “thời cuộc”. Những thành tích văn học của ông, như Trận Thanh Hương được giải thưởng văn học kháng chiến, Đất chuyển kể như thiên tiểu thuyết đầu tiên về cải cách ruộng đất đến văn học Trung Quốc cũng nể vì, và đặc biệt là tiểu thuyết Bản án tử hình kể như thiên tiểu thuyết đầu tiên khơi dòng dòng văn học “dao găm súng lục” an ninh tình báo của chúng ta. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Khắc Thứ đều để lại một dấu ấn lịch sự trong lòng bạn đọc và trong nền văn chương nước nhà.

Nguồn Văn nghệ số 15/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gừng càng già càng cay
Nhà thơ Ngô Xuân Hội viết về nhà thơ Nguyễn Tùng Linh
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Trần Hoài Anh và sự dấn thân với ‘di sản văn học miền Nam’
Đây là Chuyên luận với nhiều trữ lượng thông tin quý và bổ ích về di sản văn học miền Nam 1954 -1975, với độ dày gần 600 trang. Tập sách được đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng, nghiêm cẩn, khai mở nhiều thông tin hay và có giá trị.
Xem thêm
Thi ca điểm hẹn: Nguyên Hùng ký họa thơ và nhạc
Chương trình của VOH, Đài tiếng nói Nhân dân TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Lâm Xuân Thi và những vần thơ mang nhiều nỗi niềm suy tư, trắc ẩn!
Bài viết của nhà văn nhà phê bình Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Phạm Phương Lan và những câu thơ Nút ra từ đá
| “Nứt ra từ đá” (thơ song ngữ Việt - Anh, NXB Hội Nhà văn 8/2024) là tập thơ thứ bảy của nhà thơ Phạm Phương Lan (SN 1973, quê Hà Tĩnh; Hội viên Hội Nhà văn TPHCM). Trước đó, từ năm 2008, độc giả biết đến chị qua những tập thơ như: “Không là gió mây”, “Góc trọ hồn người”, “Khâu tình”, “Mật ngữ em” v.v... và một số ca khúc được phổ nhạc từ thơ của chị...
Xem thêm
Dấn thân vào con đường văn chương
Ở tuổi 80, nhà thơ Trần Nhuận Minh sáng tác và xuất bản sách nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời ông.
Xem thêm
Nhà văn Xuân Phượng đi và đến...
Bài viết của nhà thơ Văn Công Hùng trên Người đưa tin
Xem thêm
Phùng Quán – Người đặc biệt nhà số 4
Đối với anh em Văn nghệ Quân đội, nhà thơ Phùng Quán là một trường hợp rất đặc biệt.
Xem thêm
“Khắc đi… khắc đến” - Bước chân của một nghị lực phi thường
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, số 139, ngày 05/9/2024.
Xem thêm