TIN TỨC

Cảm thức thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
382 lượt xem

NGUYỄN THỊ LAN
(Nguồn: Nhà văn & Cuộc sống số 14, tháng 5-6/2023)

Thế giới thơ của Lê Thành Nghị đầy ắp những hình ảnh, sắc màu, âm thanh, mùi vị của thiên nhiên. Anh đã dành cho thiên nhiên một vị trí trang trọng, cao quý. Từ những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn hoành tráng, những bức tranh toàn bích của núi cao, biển rộng, sông dài, mây núi trùng điệp, bầu trời mênh mông, mặt hồ êm đềm, mưa, gió, trăng, sao, cỏ cây ngút ngàn mang đậm màu sắc cổ điển đến những bức tranh bình dị, nhỏ bé, xinh xắn, tiêu sơ của vòm lá, nhành hoa, bờ ngô non, giọt sương, vệt nắng…tất cả đều đi vào thơ Lê Thành Nghị một cách tự nhiên.

Ở đó luôn có sự tương thông, tương hợp của hai kiểu không gian (vĩ mô và vi mô): một bông hoa mai nhỏ xíu giữa cảnh đất trời bao la, một đám lục bình trôi giạt trên sông Tiền Giang xa rộng… Từ những loài hoa lộng lẫy, kiêu sa, đài các đến những loài hoa bình dị, dân dã, quê kiểng đều có trong thơ: hoa hoàng lan, hoa loa kèn, hoa hồng, hoa đại, hoa sen, hoa mai, hoa muồng vàng, hoa sữa; đến hoa xoan, hoa gạo, hoa mười giờ, hoa trạng nguyên, hoa lau, hoa mua, hoa lan rừng và cả hoa cỏ, hoa xương rồng…Thiên nhiên trong thơ anh trang nhã, thanh sạch, trầm tĩnh…, mang theo những mã thông điệp tình cảm riêng của tác giả.

Trong bốn mùa, mùa xuân là một trong hai mùa được viết nhiều nhất. Với anh, mùa xuân được coi là mùa của sự sống, mùa của cảm xúc thăng hoa, mùa của tình yêu và mùa của những khởi đầu tốt đẹp. Mùa xuân trong thơ Lê Thành Nghị mang hương vị riêng, làm nên nét xuân dịu dàng, nhẹ nhàng, đậm hơi thở của mùa xuân vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Đây là làn mưa bụi đầu tiên (đặc sản của xứ bắc) khi mùa xuân về: Những chiếc lá trong bụi mù/ Run rẩy với những màn mưa đầu tiên giăng trên phố nhỏ/ Ngàn hạt ấm li ti quá đỗi dịu dàng/ Như bàn tay ai lướt trên phím đàn. Hoặc: Mai mốt em về đi chợ Huyện/ Mưa bay như bụi phiên đông người (Chợ Huyện)… Mưa nhưng không phải là mưa mà là bụi mù, hạt nhỏ li ti. Mưa xuân đấy, dịu dàng, nhẹ nhàng, thanh tao, tinh khiết làm nên vẻ đẹp mơ màng, sương khói, như thực, như hư của tiết xuân đồng bằng Bắc Bộ.

Khi hạt mưa xuân giăng mắc khắp cõi nhân gian thì muôn loài cỏ cây, hoa lá như được chiếc đũa thần chạm vào, chợt tỉnh giấc sau một mùa đông lạnh giá. Bắt đầu là: Lá thì mướt quá. Rồi nắng: Chùm nắng non tưởng trái chín đầu cành. Còn đây là tháng ba, khi mùa xuân đã “chín”: Lối nhỏ tháng ba mây mù giăng/ Gió lạnh cuối mùa thôi cũng hết/ Cuối chân mây nắng về đột ngột/ Gió trên đường cũng ngơ ngác xanh. “Gió ngơ ngác xanh”  nói lên cái ngỡ ngàng của những ngày xuân đầu tiên. Sau thoảng gió ngỡ ngàng ấy là vũ khúc của mùa xuân: Ngọn gió xuân thổi mềm trên dặm cỏ/ Đã bắt đầu những đọt nắng ngời lên. Và sau “đọt” nắng ấy là hoa, trăm hoa đua nở: Tháng giêng bận bịu hoa…/ Đất Nghèn tháng ba hoa ven sông ven núi. Muôn sắc hoa bước vào thơ: có thể là bông hoa cỏ nhỏ xíu vô danh lòai hoa lạ cứ nhìn cha trong cỏ (Mùa xuân của cha và con), bông mai núi xinh xắn, thanh tao, tinh khiết “vừa thức” trong mưa bụi bay mờ sông Nậm Rốm; có thể là  Hoa xoan trôi trắng tím cả đôi bờ; bông loa kèn xanh gầy, mảnh mai và lặng lẽ.

 Đến mùa hạ, thơ anh tràn ngập sắc màu của cây, của nắng. Trong bài Nhịp thời gian, anh “định vị” với người đọc về những ngày cuối xuân đầu hạ. Mỗi câu thơ là một tiểu cảnh, một sắc màu, một âm thanh của lá, của hoa, của hạt sương, của nắng và tiếng chim: Tháng tư lối nhỏ hoa rụng đầy/ Tháng tư tiếng chim dài sau lá/ Tháng tư hạt sương run ngọn cỏ/ Tháng tư vạt nắng vàng rơi!. Một tháng tư náo nức của mùa hè Hà Nội. Còn mùa hè quê hương với những kỷ niệm của tuổi thơ: Mùa hè đang rung những quả chuông màu lam/ Em nhớ không mùa sim Hồng Lĩnh?.../Rặng bàng còn cất tiếng ve/ Đồng Hòn Mô có còn nghe sáo diều (Về quê). Mùa hè ở Matxcova lộng lẫy sắc màu: Cây ngày mai sẽ xanh kín lá/ Thảm cỏ nhung lộng lẫy nắng bên đường (Matxcova mùa tuyết đang tan). Và cuối mùa hè: Phương bắc mây mù chậm trôi, chậm trôi…/ Cốc rượu nồng nàn trong vườn nhẹ gió/ Hoa cỏ ngủ yên trên từng lối nhỏ…/Mây trắng vô biên, tráng lệ đền đài (Buổi chiều ở Edinburgh)…

Sang thu, vạn vật đã đến lúc thu mình. Những gì xanh tươi đã đến lúc tàn phai, như một báo hiệu qua câu chữ: sen tàn dẫn đến mùa thu. Nhưng chính sự phai nhạt này làm mùa thu như trở nên quyến rũ trong luân chuyển, trong sang mùa, trong mất mát, trong úa tàn: Mùa hạ đang xa/ Tàn trong nắng muộn/ Vàng trong yên lặng…/ Nhẹ nhàng chiếc lá bàng thay/ Kéo theo một vạt lửa bay xuống hồ (Sang thu); Rồi: Đêm qua một chiếc ngô đồng xuống/ Gió đẫm Tây Hồ, sương đẫm thu; Chạm tuổi bảy mươi/ Là chạm vạt cúc vàng bên vầng trăng lặn (Satna 100); Bâng quơ nhớ gió đưa mùi ổi chin/ Mây tần ngần trắng muốt phía sau cây (Mùa thu năm Bính Tuất)…Tất cả là tín hiệu sang thu, chuyển giao yên lặng… Cái nhẹ của mùa thu được lượng hóa: Tháng mười nhẹ như cầm tay được/ Áo dài bay cây đứng ngẩn bên đường. Cái nhẹ của mùa thu như tấm voan choàng lên cả đất trời: Trời vô biên thiên thanh/ Mây quá chừng lặng lẽ/ Mang cả dáng trăng non/ Áo dài về đâu thế?. Cái nhẹ ấy có trong cánh chim: Đàn chim sải cánh cùng cao rộng; trong áng mây: mây tần ngần trắng muốt; trong cỏ lặng bờ dài, trong Cây đứng sầu đông, sông nhớ mưa; trong hoa bay tím ngõ; trong mùi ổi chínnước hồ đầy…Rồi hoa: Mùa thu đến rồi đi theo vạt hoa vàng.../Cúc vàng trong yên lặng…Cảnh thu gợi lên man mác buồn bao trùm cả không gian và thấm vào tâm tư: Ngày thăm thẳm/ Trời xanh thăm thẳm/ Mắt người buồn thăm thẳm.../ Gió lạnh thổi từ năm ngoái đến/ Tiếng chuông tê buốt suốt mùa thu.  

Nói đến mùa đông là phải nói đến cái lạnh se thắt của gió mùa nhất là trong những đêm đông. Trong bài Mai gầy, Lê Thành Nghị có những câu thơ đầy biểu cảm: Đêm mùa đông gió cuốn sông dài/ Những vì sao gọi nhau về thăm thẳm/ Nghe bốn phía ngút ngàn gió lạnh/ Tiếng vạc rơi tê buốt trước hiên nhà. Quả là lạnh. Câu nào cũng “lạnh”. Nhưng nhiều khi không phải nhắc đến chữ “lạnh”, “rét”, “gió bấc” mà vẫn thấy rõ “mùa đông”: Một nhánh mai gầy/ Lá đi theo gió không gửi một lời/ Mình cây ở lại/ Chờ giọt sương mai… Anh cảm nhận mùa đông qua sắc lá: Mùa đông cứ tắt dần trên lá đỏ.../ Ngày cuối chạp/ Cây bàng lá đỏ đứng yên trong giá rét/ Phố phường mưa bụi bay. Hoặc: Những chiếc lá mùa đông vừa trút xuống/ Khúc không lời cây nói với thời gian... Và dường như cả đất trời đang “thức dậy”: Say điều gì hoa lau ngả nghiêng rung/ Chờ điều gì hoa mua tím cuối đông/ Rừng thức dậy nghe rừng đang trút lá. Và đâu đó trên bến sông quê đẹp bình dị mà lộng lẫy: Bát ngát con đường quê cuối chạp/ Lòng theo vạt nước chuyển ra giêng/ Bốn bề thơm thảo giàn gấc chín/ Hoa cải vàng theo đến mép sông. Có thể nhận ra màu sắc tươi tắn không hề xám xịt, tàn tạ vẫn thường thấy của mùa đông. Cho dù có khi là thời điểm “cuối mùa đông” (Rừng tràm cuối mùa đông), khoảnh khắc giao thời của đất trời, ẩn chứa sự sinh sôi, rạo rực nhìn rừng tràm thay lá/ Máu lên mười đầu ngón tay (Rừng tràm cuối mùa đông), ẩn chứa vẻ đẹp rất riêng.

Thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị thật giàu màu sắc, một thiên nhiên trang nhã, lộng lẫy, ít gam màu chói gắt. Lê Thành Nghị thường nói bằng màu sắc. Nhiều nhất là sắc tím. Màu tím dường như có ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Tuyển tập có 192 bài thì ít nhất có gần 50 câu thơ có sự xuất hiện của màu tím. Màu tím trong hoa (hoa xoan, hoa lục bình, hoa cúc dại, hoa thạch thảo, hoa mua, hoa tuy líp…), trong chiều tím, núi tím lam, tà áo tím, hoàng hôn tím…Đó là những sắc màu của thế giới tự nhiên. Nhưng đó cũng là sắc tím của tâm trạng: Thao thiết nhớ một thời nông nổi tím/ Nếu có phải đợi chờ đến tím/ Ta sẽ chờ tàn lụi cả rừng gai!; Đã nói rằng yêu là mềm cả đá/ Đã nói rằng thương là tím cả sông…;Cả rừng hoa hái chờ em ngày ấy/ Biết bao mùa còn trôi tím trong anh; Trận mưa chiều làm lá rụng đầy sân/ Người đi vắng hoa hình như tím ngắt; Chuông đồng hồ gõ tím ngát hoàng hôn… Những sắc độ của màu tím không còn là màu của thế giới tự nhiên nữa mà trở thành màu của cảm xúc: nông nổi tím, đợi chờ đến tím, tím cả sông, trôi tím, tím ngắt, tím ngát… thành biểu tượng cho nỗi nhớ, ký ức, hoài niệm, sự chờ đợi, lòng thủy chung.

Thơ Lê Thành Nghị giàu biểu tượng. Trước hết là cỏ. Mật độ cỏ rất dày: cỏ trong vườn, cỏ bên sông, cỏ dọc bờ suối, cỏ lan mặt đất, cỏ khắp mọi miền quê, cỏ mênh mông ở Miền cỏ dại…Cỏ vô hạn với đời người hữu hạn: Kìa em! Đừng giẫm chân lên cỏ…; Vô hạn những triền sông, ngút ngát những chân đê/ Một nền xanh dưới chân mây…là cỏ; Nơi mẹ ta nằm lút bờ cỏ may…vv. Cỏ đã tạo nên điệp khúc tâm trạng, tình người chứa chan: những thương nhớ, những hoài niệm, những chiêm nghiệm. Nhà phê bình Cao Ngọc Thắng trong một bài viết của mình thật có lý khi cho rằng: “Chọn cỏ và đưa cỏ vào thơ, Lê Thành Nghị như đang tìm kiếm cái “vô hạn” trong đó, vừa khiêm nhường vừa kiên cường giữa mênh mông trời đất”*. Anh khẳng định: Có những câu thơ dù thiêu cũng không thể cháy/ Như thể lửa càng to, thảm cỏ mọc càng dầy (Thi sỹ). Những câu thơ về “cỏ” của anh đằm sâu nghĩ suy với nhiều tầng nghĩa, hiện lên vẻ đẹp lung linh, biến ảo. Điệp khúc “cỏ” như một hình tượng mang tính biểu tượng trong thơ Lê Thành Nghị.

Trong các loài hoa, anh viết nhiều về sen. Bên hồ sen 1, 2, 3 là một liên khúc về hoa sen “vừa bay bổng, vừa sâu lắng, vừa trùng điệp mênh mang”. Với sen, nhà thơ không chỉ thấy tác dụng của sen trong đời sống con người mà còn vì những “phẩm chất” mà con người phải vươn tới. Sen trong sạch, cao quý, tao nhã, vừa có sắc, có hương: Sen vẫn ngào ngạt hương/ Mặc kệ bùn luôn tìm cớ để vấy bẩn. Sen bay bổng, lãng mạn, vượt lên cái tầm thường: vô vàn những màu hồng, màu trắng đang muốn bay lên/ Những cánh mỏng như thiên thần mềm mại rung với gió/ Đã xa bùn đất, đã khuất ưu phiền/ Sen còn muốn bay lên cao nữa!.../Rứa mà như đang muốn vượt lên tất cả/ Để đến tận cùng-một hồ sen đang cất cánh bay…

Trong thơ anh có khá nhiều bài về mưa qua những câu thơ lãng mạn, giăng mắc tâm tư, gợi nhớ từ một không gian xa lắc, một thời gian xa vời chất chứa bao kỷ niệm: Tuổi học trò Ôi cơn mưa! Chỉ có thể là mưa như tuổi nhỏ/ Trẻ nhường kia thuở với bạn đến trường; Mối tình đầu Ôi cơn mưa/ Chỉ có thể là cơn mưa kỷ niệm/ Mối tình đầu và những trận mưa đêm; Một thời trẻ măng đi cầm súng Bom dội trong mưa, rừng cháy trong mưa/ Núi cúi mặt để khỏi trào nước mắt. Mưa gợi nhớ đến mẹ: Tôi cũng bao ngày mưa giăng nhớ mẹ/ Nỗi nhớ dâng trên mái phố, mái nhà. Mưa làm liên tưởng đến cha: Ôi hững cơn mưa thối trời, thối đất/ Cha chống gậy lội bùn đi dạy học/ Mưa ướt đầm gió lạnh chéo qua vai…Đó còn là những cơn mưa ấn tượng, găm sâu vào tiềm thức của người thơ mà anh gọi là những hạt buồn đau làm lạnh lùng nhân thế, làm nên những ký ức ướt sũng... như thể đã đi suốt đời anh…

Thiên nhiên trong thơ Lê Thành Nghị có sự hòa trộn với cái sâu kín của tâm hồn, không chỉ là những gì anh nhìn thấy mà cả những gì cảm thấy. Anh giãi bày lòng mình qua thiên nhiên, qua lăng kính cảm xúc chủ quan của mình với rất nhiều cung bậc. Ở đó, thiên nhiên nhiều khi không còn là một thực tại khách quan nữa mà là thực tại tâm trạng, là cái cớ để nhà thơ nhận thức, suy tư, như thể hòa nhập với thiên nhiên để thả lỏng tâm tư, tìm sự tự do, thư thái trong tâm hồn: Tôi đã bao lần ngồi trong nắng sớm/ Chẳng chờ đợi gì ngoài một giọng chim/ Tôi đã bao lần trên con đường vắng/ Chẳng chờ đợi gì ngoài khoảnh khắc lặng im/ Tôi đã bao lần trôi trên suối tím/ Chẳng ước ao gì ngoài được trôi êm. Mỗi khi phiền muộn, với tác giả thiên nhiên là nơi di dưỡng tinh thần, là nơi lắng sâu tâm thái, nơi thanh lọc tâm hồn. Tìm đến những khoảnh khắc lặng yên kia, anh nhận ra cái Tĩnh Động của thiên nhiên để trấn tĩnh lòng mình: Chiếc lá nào buông bên cửa sổ/ Chấn động lòng ta đến cạn đêm?. Câu thơ vẽ nên chân dung tinh thần của một người thơ trầm tĩnh, sống nội tâm, nhưng rất tinh tế, nhạy cảm. Đây là hoa hoàng lan: Cuối tháng ba, hoa suốt đêm dài/ Nghe gió thoảng biết cây vườn còn thức. Nói gió để nhắc đến cây vườn. Nói cây vườn để chỉ tâm trạng, một tâm trạng luôn thức, luôn tỉnh, luôn mở trước mọi biến động của thiên nhiên. Còn đây là núi, sỏi đá và mặt trời: Núi cao say đứng, núi thấp say nằm/ Sỏi đá và mặt trời cùng nhòe dưới suối. Và đây là cái vô hình đã trở thành hữu hình trong thơ anh: Mênh mông không lời ngày đi xa lắc/ Như vạc bay hàng một giữa mùa đông…Gắn với thiên nhiên thơ anh thăng hoa. Nhiều câu, nhiều bài mang sắc thái lãng mạn với tứ thơ, với tư tưởng mới lạ phóng khoáng, khí thơ mạnh mẽ: Hình như chim vẫy cánh ngoài vô tận/ Còn ta: bờ lau bạc suốt trăm năm…/Nếu được làm trời xanh, nếu ta được làm trời xanh/ Ngày mai trời xanh sẽ vô biên…Rồi đến một ngày kia khi buộc phải ra đi, anh nguyện: về làm đất chờ hạt xuống/ Hóa những cánh diều bay trăng. Vậy là trọn vẹn một “tình yêu” thiết tha, nồng nàn và lãng mạn với đất trời cho đến tận cuối!

Thấm đượm trong từng cảnh sắc là một linh hồn “mang mang thiên cổ”, một tâm thái kín đáo và chừng mực, một tâm thế tự tại mà không hề ảo não, một nỗi buồn dịu nhẹ, lan tỏa từ người viết sang người đọc. Bài Ngẫu hứng sông Tiền, gợi lên mênh mang, xa rộng của sông nước, lênh đênh của kiếp lục bình, bất định của tâm trạng người viết. Nhưng điều đáng nói ở đây không phải là nhà thơ miêu tả hoa lục bình mà biểu hiện những suy cảm, liên tưởng…với những gì thường biến, thường hằng của thiên nhiên: Nào ai nói giùm ta có ghì vĩnh viễn/ Hoa tím được bao nhiêu trước mãi mãi hoang tàn?. Một thoáng buồn trước cái hữu hạn của đời hoa, (cũng để nói người), một nỗi u hoài tha hương khi ý thức được cái hữu hạn trước vô hạn, một thoáng cô liêu nơi đất khách. Cái tình trong những câu thơ da diết mà không bi lụy, thiên nhiên rộng rãi một vệt mờ bờ lút phía chân mây mà không quạnh vắng.

Nhưng cô đơn- cái cô đơn bản thể thì có thật, nó ở trong cây, trong nước, trong bao la: Gió đi đâu cây một mình một bóng/ Sóng giang hồ vỗ đến hạ huyền đêm…/Sông thì rộng- vừa cánh cò chớp trắng/ Một vệt mờ-bờ lút phía chân mây…Cũng như có lần chia tay Nha Trang với những câu thơ thảng thốt: Bao giờ về đi trên con đường ấy/ Biết thế nào là biển nhớ nhung trăng/ Bao giờ về khóc thầm trong nước mặn/ Biết thế nào là biển lạnh Nha Trang/ Bao giờ về, bao giờ về với biển/ Hoa nói đi, hỡi cánh hoa vàng. “Bao giờ về”, hỏi mà không lời đáp, một nỗi buồn xa vắng mênh mông. Bài Chiều tháng bảy qua sông thì câu chữ tê tái: Bốn bề vắng lặng mênh mông bốn bề, với miên man nước chảy vô thường, với Mây bay lạc lối hoa trôi lạc dòng. Tháng bảy là tháng cô hồn, tháng mưa ngâu. Cảnh vật hiu quạnh, lòng người theo đó cũng tê buốt nỗi buồn thế gian. Hình như người viết đang liên tưởng đến chuyến đò cuối cùng đến bờ hư vô: Mai về xếp lại tháng năm/ Ngu ngơ, khôn dại, lỗi lầm, được thua/ Xếp ngày ước, xếp đêm mơ/ Để trôi một chuyến sang bờ hư vô. Bài thơ viết năm 2009, còn sớm để nghĩ đến ngày đó, cho thấy một tâm hồn đa cảm, nhạy cảm trước thời gian. Trong bài thơ Một mình thì nhà thơ không chỉ buồn mà còn cô đơn đến tận độ: Sông như sông rượu đong đầy/ Chén nâng một mình sao cạn/ Thương nhớ người đi muôn dặm/ Ta với mây bàng hoàng bay. Chỉ có tamây bàng hoàng bay. Một câu thơ gói cả một buổi chiều cô đơn. Bài thơ Tàu về thảo nguyên lại là nỗi buồn ly biệt, nỗi buồn lẻ loi trước xa cách: Trận mưa chiều làm lá rụng đầy sân/ Người đi vắng hoa hình như tím ngắt/ Tôi cũng mất những gì yêu quý nhất/ Chỉ còn nguyên vạt nắng lẻ sau nhà/ Một nửa chân trời theo người ấy đi xa/ Một ngàn ngôi sao cùng trôi về phía ấy/ Nửa chân trời phía người ở lại/ Đêm màu nhung thầm lặng xuống trong vườn.

Nhưng nỗi buồn trong thơ anh là buồn Đẹp, có phải vì nó luôn gắn với thiên nhiên? Đẹp bởi sự vương vấn nhẹ nhàng của một tâm hồn đa cảm. Ở đó ta thấy đủ cả: sự bình yên, sự tĩnh tâm, sự xao động…của những trải nghiệm, chiêm nghiệm và chứng nghiệm của nhà thơ, đặc biệt những lúc chia xa.

Trong thơ Lê Thành Nghị đầy ắp kỷ niệm. Với anh, về với thiên nhiên là về với kỷ niệm, trong đó có những kỷ niệm về quê hương: Hoa đại y nguyên lời ước hẹn/ Trăm năm vẫn rụng trắng sân chùa. Là cố hương: Suối trôi trong tĩnh tại/ Núi động trong dáng thiền/ Nuôi ta lớn lên. Nơi mỗi khi trở về: Ta về ngơ ngẩn cùng tre trúc/ Kìa lối vào mây đến cửa thiền. Nơi đó anh ước ao: về ngược thời gian/ Rẽ vạt cỏ năn/ Làm con cò lội ruộng/ Ta về làm đất chờ hạt xuống/ Hóa những cánh diều bay trăng. Nơi đó Không có nỗi nhớ nào xa xót như nhớ miền Trung, bởi vì thiên nhiên miền Trung nên thơ, hùng vĩ nhưng thật sự khắc nghiệt: Miền Trung quê anh cát bay trong sữa mẹ. Nơi đó mưa nắng cũng khác thường: Mưa miền Trung/ Cuốn đi những đồi cát bỏng/ Sạt lở những vách núi cao/ Ngập tràn những dòng sông ngắn. Cho nên “nhớ” về quê hương với anh cũng là sự “xa xót”….

Thơ Lê Thành Nghị là thơ của một cây bút tài hoa, có học thức, có sức lan tỏa. Có thể trích dẫn nhiều câu thơ hay và đẹp về mọi khía cạnh trong đó có những câu thơ về thiên nhiên rất đặc trưng của thi sỹ. Nhiều câu thơ rất ám ảnh. Chẳng hạn: Em đi trên bờ nước dưới bến dâng lên (Mùa hoa xoan), Ta về làm đất chờ hạt xuống/ Hóa những cánh diều bay trăng (Miền đất quê hương), Cả rừng hoa hái chờ em ngày ấy/ Biết bao mùa còn trôi tím trong anh (Trong suốt sông Kỳ Cùng), Sông mất một đời trôi đi dại dột/ Tôi mất một đời để quên một người (Một đời), Cuối tháng ba hoa suốt đêm dài/ Nghe gió thoảng biết cây vườn còn thức (Mùa hoàng lan), Nhân thế bao la như biển rộng/ Nỗi buồn một giọt cũng ngầm đau (Tháp Chàm), Nào ai nói cùng ta có gì vĩnh viễn/ Hoa tím được bao nhiêu trước mãi mãi hoang tàn (Ngẫu hứng sông Tiền), Ai bỏ quên ở Đại Từ mùa rét cũ/ Khăn mùa đông giờ đã như mây (Về nơi sơ tán cũ)..vv

Đó chính là vẻ đẹp độc đáo của thơ Lê Thành Nghị, một phong cách khó lẫn trong thơ Việt đương đại.

Hải Dương đầu Xuân Quý Mão 2023

______________

Cao Ngọc Thắng: Hoa thường hay héo cỏ thường tươi. Báo Văn nghệ Công an ngày 8 tháng 9 năm 2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm
Đào Phong Lan “không thể nói lời từ biệt” với thơ!
Bài viết của Bảo Gia đăng trên tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 98, ngày 02/11/2023.
Xem thêm
Đò đầy vơi, bến cũ chẳng quên người!
Bài viết của PGS.TS Ngô Minh Oanh về tập thơ Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thế sự trong Sóng đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Sóng đời của Trần Ngọc Phượng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023.
Xem thêm
Khi văn chương tấn công văn hóa bản địa…
Người viết sử - Truyện ngắn của Nguyễn Trường, lần đầu tiên đề cập đến hậu quả của tác phẩm văn học.
Xem thêm