TIN TỨC

Sức mạnh hoà bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-13 22:21:01
mail facebook google pos stwis
2962 lượt xem

PHẠM MINH MẪN

Tháng 3 năm 1975, trong trận đánh núi Vú (Vú Chị, Vú Em, huyện Tiên Phước, Quảng Nam), đại đội trưởng Mao bị thương. Tôi (23 tuổi, đại đội phó) được tiểu đoàn trưởng Đàm Sánh (sau này là sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 QK5) gọi lên giao nhiệm vụ quyền Đại đội trưởng C10 D6 để tiếp tục tấn công thị xã Tam Kỳ.

Trận đánh Hố Bạch trước đó, bộ đội thương vong nhiều, vì núi đá không thể đào hào chiến đấu cá nhân. Đêm tiềm nhập, anh em phải nằm hoặc ngồi bên vách núi, bọn lính từ trên cao điểm bắn hú hoạ đạn phóng lựu xuống, hễ nghe tiếng “cắc” đầu nòng ai cũng thấp thỏm lo ngại, chỉ khi nghe thấy tiếng “oành” ở đâu đó mới biết mình không bị đạn M79 rơi trúng... Trịnh, đại đội trưởng C11 gặp tôi khoát tay: "Mẫn ơi, mất hết quân rồi!". Sau này Tiểu đoàn trưởng Đàm Sánh nói nhỏ với tôi: "C9 và C11 đều đang thiếu quân do thương vong, tiểu đoàn chỉ còn C10 của mày quân số tương đối đủ"…

Đại đội 10 được tiểu đoàn phối thuộc 1 khẩu đội cao xạ 12 ly 7, tôi bố trí cùng khẩu đội cối 60 đi phía sau để yểm trợ. Khi phát hiện thấy lính địch chạy nhốn nháo trên Quốc lộ 1, khẩu 12 ly 7 hạ nòng bắn thẳng, đạn nổ chát chúa nghe đầy uy lực...

Cả đại đội băng từ trên núi xuống, khoảng 10 giờ đã vào được thị xã Tam Kỳ, chén thịt hộp ba lát, hút thuốc lá Rubi "chiến lợi phẩm", sau đó tiểu đoàn được lệnh cùng sư đoàn dọc theo đường sắt và đường bộ tiến quân ngược về Đà Nẵng… Vũ khí thu nhiều vô kể, trong đó có khẩu 106,7 lúc đầu đại đội còn báo cáo, sau chẳng ai quan tâm. Qua sông Bà Rén, thượng úy Tương, Trưởng Ban trinh sát trung đoàn hy sinh. Đến Thanh Quýt (huyện Điện Bàn) thì gặp ổ kháng cự khá cứng của lính thủy quân lục chiến, đơn vị nào đánh cứ đánh, ai không đánh nhau thì ôm súng ngủ gục lấy sức. Hàng chục xác địch được anh em kéo ra đắp chiếu xếp nằm sát mé Quốc lộ 1. Có mấy cô gái trẻ và một phụ nữ trung niên tham lam đến mở chiếu lính chết trận để hôi của, bị anh em la mắng đuổi đi. Nghĩ cũng cám cảnh cho số phận người lính phía bên kia. Ngày 29/3 đơn vị đã vào đến Đà Nẵng. Vũ khí, quần áo, đồ đạc quân dụng ngổn ngang khắp nơi cùng cờ phật tử và băng rôn “Yêu cầu hai bên miền Nam Việt Nam biến Đà Nẵng thành khu phi quân sự để đảm bảo tài sản và tính mạng của đồng bào.”. Đơn vị ngủ tại nhà dân ở Miếu Bông, đêm tôi đi kiểm tra thì nghe bà con nói với nhau: “Lính của chế độ mới được đấy, thấy họ kỉ luật rất nghiêm…”.  Phía sân bay Đà Nẵng, suốt đêm bộ đội bắn pháo sáng thu được để ăn mừng. Sau đó đơn vị được lệnh thu gọn tinh giản đồ đạc, sẵn sàng chờ lệnh tiến vào Sài Gòn…


Phi công Nguyễn Thành Trung (bên phải) cùng đồng đội vui mừng sau trận ném bom vào Dinh Độc lập ngày 8/4/1975


Phi công Nguyễn Thành Trung và PGS-TS, nhà thơ Mai Quỳnh Nam tương lai.

Ngày 8/4, Đài Tiếng nói Việt Nam loan tin một trung úy phi công VNCH phản chiến, ném bom dinh Độc Lập. Sau đó bên tuyên huấn cho biết phi công đó là Nguyễn Thành Trung, gia đình cách mạng được ta cắm vào hàng ngũ địch. Bài thơ SỨC MẠNH HÒA BÌNH tôi viết trong những ngày này. Bài thơ đã được đăng trên một số báo và tạp chí nhưng chưa một lần tác giả và nhân vật gặp nhau, tôi chỉ “gặp” Nguyễn Thành Trung trên truyền hình và 1 lần thấy anh trên sân bay Pleiku  với Đoàn Nguyên Đức từ xa…

 Sau 47 năm (2022) tôi mới có dịp hạnh ngộ cùng Đại tá, Anh hùng LLVTND, nguyên Phó Tổng giám đốc hãng hàng không Quốc gia Việt Nam (VN Airlines) tại nhà riêng của anh ở Quận Gò Vấp.

Nguyễn Thành Trung không dùng zalo và Facebook nhưng anh vẫn vào theo dõi báo chí và các trang mạng xã hội. Sinh năm 1945 (trong hồ sơ ghi 1947), trông anh vẫn khoẻ tuy từng trải qua trận tai biến năm 2019. Buổi sơ giao, ban đầu anh có vẻ khá kiệm lời, không muốn nhắc lại một thời hào hùng đã trải qua, thậm chí có cô cháu Giám đốc một nhà xuất bản cố thuyết phục anh viết hồi ký nhưng anh đã từ chối. Nhưng rồi câu chuyện chủ, khách mỗi lúc một thân mật và anh đã cởi mở lòng mình.

Có rất nhiều chuyện mà anh chưa từng kể với báo chí, lần đầu tiên tôi được nghe. Anh vốn họ Đinh nhưng đã đổi thành họ Nguyễn để che mắt địch (năm 1963 cha anh là Bí thư huyện Châu Thành, Bến Tre bị chính quyền Ngô Đình Diệm sát hại, thả xác trôi trên dòng kênh). Tôi hỏi anh tại sao đợt cắt bom đầu tiên anh lại ném hai trái bom xuống sân dinh Độc Lập rồi mới vòng lại ném hai trái trên nóc dinh (trong đó anh đã thao tác "khoá" một trái không cho nổ mà nhiều người vội chê bom Mỹ bị "tịt ngòi"). Anh khẳng định “thao tác“ khoá bom phi công nào cũng biết. Tuy anh không nói nhưng tôi đã đoán trúng và được anh xác nhận, đó là lý do nhân đạo. Hai quả bom ban đầu nổ ở sân dinh Độc Lập để mọi ngươi kịp xuống hầm tránh trú. Còn nếu hai quả bom đợt hai cùng nổ trên nóc dinh thì hàng chục người có thể sẽ bỏ mạng. Cuộc chiến sắp kết thúc, người Việt ta đều máu đỏ da vàng...

Trong lịch sử lực lượng vũ trang, Nguyễn Thành Trung là một minh chứng sống động trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân và dân ta với truyền thống “Dùng vũ khí địch đánh địch”!

 

SỨC MẠNH HÒA BÌNH

Tặng trung uý phi công Nguyễn Thành Trung

 

Khi chiếc F5-E tách khỏi đội hình

Dưới cánh bay vẫn đường băng của địch

Và chiếc máy bay tiêm kích

Cũng từ bên đất Mỹ đưa sang…

 

Anh bay bằng Sức- Mạnh- Việt- Nam

Bánh xích chiến xa, tiếng gầm trọng pháo...

Hào khí ngàn năm tụ dồn giông bão

Sài Gòn đang tiến công!

 

Những trái bom xé nát dòng sông

Đất nước cắt chia, phố làng xơ xác

Những trái bom hằn ghi tội ác

Đang treo dưới cánh bay

 

Trời Sài Gòn vẫn xanh giữa ngàn mây

Cái màu xanh ba mươi năm mơ ước

Xác ba anh trên dòng kênh xanh năm trước

Bao người ngã xuống giữ màu xanh?

 

Đất mẹ kiên cường tiếp sức cho anh

Cánh bay nghiêng trên khoảng trời tổ quốc

Ngôi nhà chữ T, chỗ núp quân bán nước *

Tội ác từ đây năm tháng chất chồng

 

Trái tim rung nhịp đập anh hùng

Cái nhấn nút nhấn vào thế kỷ:

Anh ném xuống đầu tên tay sai Mỹ

Những trái bom U S A!

 

Tiếng nổ rung trời, sóng nổ truyền xa

Góp sức nóng bao trái tim nhân loại

Khi Thiệu rúc dưới hầm sâu khiếp hãi

Cả miền Nam cờ đỏ rợp trời.

 

Trái bom sinh ra vốn đề giết người

Bọn lái súng muôn đời đều nghĩ thế

Báu vật ấy của những tên đồ tể

Về tay anh thành sức mạnh hòa bình…
 

PMM

-----------

(*) Dinh Độc Lập.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm