TIN TỨC
  • Truyện
  • Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc - Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga

Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc - Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-08 16:51:00
mail facebook google pos stwis
11 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Chiều ở Loa Thành lặng như tờ giấy đã ố màu. Không tiếng người. Không bóng ai. Chỉ gió thổi cỏ lau nghiêng ngả, cuốn theo mùi đất xưa lẫn với mùi tro tàn cổ tích.

Cả vùng ấy, từ lâu không ai bén mảng tới. Thành hoang vu, đá đổ, gạch phủ rêu, hào sâu cạn nước. Người trong làng bảo: “Chốn ấy âm khí nặng.”  Nhiều người kể rằng những đêm có trăng, người ta thường thấy một bóng áo trắng loang đỏ như nhuộm máu phất qua bờ tường sụp, như thể công chúa Mỵ Châu trở về tìm cánh ngỗng. Có đêm, mai rùa phát sáng lặng lẽ bò ngang lùm cây. Đêm không trăng thì có tiếng khóc tức tưởi, vừa xa vừa gần, tưởng như phát ra từ lòng đất. Những câu chuyện thầm thì nhuốm màu liêu trai ấy khiến dân quanh vùng tránh xa nơi thành đổ. Người ta sợ cái vắng lặng và không khí nhuốm màu rờn rợn nơi đây.

Nhưng có một người vẫn đến Loa Thành. Một mình. Ngày nào cũng đến.

Đó là Trình Khiêm, một nho sinh nghèo.

Cha mẹ chàng mất khi chàng mới mười lăm. Người con gái cùng làng đã đính hôn với chàng từ thuở nhỏ theo giao ước của hai bên cha mẹ thấy chàng nhà tan cửa nát cũng bội ước, theo một kẻ buôn muối giàu có. Không tiền, chàng đành rời kinh sư, rời lớp học, rời cả ánh mắt lạnh nhạt của người thầy từng quý mến mình khi còn áo lành cơm đủ.

Trình Khiêm về quê cũ, dựng túp lều gianh nơi bìa làng, trên nền đất cũ của cha mẹ ngày xưa. Bởi căn nhà gỗ cũng đã phải bán đi từ thuở lo thuốc thang cho cha mẹ. Nửa ngày chàng cày cuốc, nửa ngày vùi đầu vào sách. Ăn cháo loãng, mặc áo vá, tay đen nhọ vì đất bùn nhưng mắt  chàng vẫn sáng rực niềm tin sắt đá: phải đỗ đạt, phải vào cung đình, phải đổi đời. Chàng đã đọc nhiều sách thánh hiền, đã thấm câu “con vua thì lại làm vua/ con sãi ở chùa thì quét lá đa”, nhưng cũng thuộc lòng những gương nho sinh nghèo đói, bần hàn, nhờ chăm chỉ sách đèn, luyện rèn kinh thư mà có ngày đăng khoa, đỗ đạt, bản thân vinh hiển, tổ tông rạng rỡ, xóm làng cậy nhờ... Chàng nuôi chí sách đèn, lai kinh ứng thí. Chàng khát khao vàng son lấp lánh của cung đình. Bởi thế, bao nhiêu gian khó chàng đều không nản. Thứ chàng trông đợi nhất là kỳ thi sắp tới của triều đình. Điều chàng mơ hằng đêm là lễ vinh quy bái tổ.

 

Nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga

 

Loa Thành là nơi chàng chọn làm lớp học riêng cho mình. Không ai tới càng hay. Không ai để ý càng tốt. Thành hoang vu nhưng vắng lặng, sạch mùi đời. Mỗi chiều, chàng dắt theo bầu nước, mang sách và nghiên mực ra bờ giếng Ngọc, dưới một gốc đề cổ thụ nghiêng mình che bóng mát.

Người ta bảo nơi ấy đầy âm khí, chàng chỉ mỉm cười:

“Ta nghèo đến mức, ngay cả ma quỷ cũng chẳng buồn ghé thăm.”

Nhưng sâu bên trong câu cười ấy là một đốm lửa khác: trái tim đã từng bị phản bội, đã từng bị lãng quên vẫn nuôi chí lớn. Và vì thế, chàng khát cung đình không chỉ vì hiển đạt, mà còn để chứng minh rằng kẻ hèn này cũng có thể được thế gian cúi chào. Trong nhiều giấc mơ của chàng, cung đình vàng son lộng lẫy hiện ra. Chàng thường nung nấu ý nghĩ: Nếu đỗ đạt hiển vinh, ta sẽ trừng trị những kẻ đã từng hắt hủi, kinh rẻ ta. Ta sẽ sống một cuộc sống đầy vương giả, cho bõ những tháng ngày lam lũ, bần hàn... 

Chàng thường lạy trước giếng, nghiêm trang và đều đặn như kẻ tế lễ:

“Xin thần Kim Quy soi đường. Xin hồn đức An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu hiển linh phù hộ. Cho kẻ này một con đường, cho sách này một cơ hội, cho chí này một ngọn gió…”

Có hôm, học xong, chàng ngồi ngẩn ngơ nhìn thành. Những viên gạch đổ, những mảng rêu xưa, cứ như một nấm mồ đang kể lại câu chuyện đã bị loài người lãng quên. Mỗi hoàng hôn, ánh mặt trời rọi xiên qua bức tường loang lở, hắt lên vạt áo chàng một màu đỏ sạm, như máu thấm vào vải.

Chiều hôm đó cũng thế. Trời dịu gió. Mây trôi rất chậm. Trình Khiêm đã học suốt buổi, đầu óc nặng trĩu, mi mắt như có người kéo xuống. Chàng tựa lưng vào gốc đề, bầu nước lăn lăn bên chân. Tiếng gió lùa qua thành cổ thổi đều như tiếng sáo lạc. Cỏ lay động nhẹ, chạm vào mép áo…

Chàng ngủ thiếp đi.

Trong giấc mộng, có một tiếng vọng mơ hồ vang lên:

“Ngươi muốn vào cung đình ư? Vinh hoa và máu, trung nghĩa và thù hận… tất cả đều đã từng ở đây. Nhưng vào cung đình có nhiều cách lắm. Ngươi chọn cách nào? Cách chính nghĩa thường gian khó, lâu dài. Nhưng bền vững. Cách phi nghĩa có thể đạt mục đích nhanh, nhưng không bền, lại bị muôn đời phỉ báng. Lịch sử luôn là những bài học đắt giá, ngươi cần phải nhớ, để bước tiếp cho đúng con đường chính, đừng lạc lối sang con đường tà…Muốn hiểu lịch sử, chúng ta bắt đầu lại, từ cánh ngỗng đỏ…”

Trong giấc mộng mơ hồ giữa chiều tịch mịch ở Loa Thành, Trình Khiêm thấy mình bị hút vào một cõi u huyễn, nơi không có ánh sáng trời, cũng chẳng có màu sắc nhân gian. Cảnh vật xung quanh mờ tối như được vẽ bằng tro than và hơi thở của đất lạnh. Trời đất như thuở còn hỗn mang.

Giữa không gian ấy là một phiến đá khổng lồ, lạnh lẽo, phủ rêu phong như hàng nghìn năm chưa từng ai chạm tới. Và giữa phiến đá đó, một con rùa lớn đang đứng đó. Thân rùa còn rướm máu. Mắt rùa còn đang ánh lên nỗi đau triền miên không thể gọi tên.

Trình Khiêm đứng chết trân. Hơi lạnh từ phiến đá xuyên qua hồn chàng. Một cơn buốt thấu tim gan.

Chàng lắp bắp:

“Đây là đâu? Và... Và rùa là ai? Có phải... có phải ngài là... rùa thần không?

Rùa thần gật đầu rồi cất tiếng người:

“Ngươi đọc sách mỗi ngày ở Loa Thành, vậy mà chưa từng nhận ra ta sao?”

Trình Khiêm rùng mình.

“Ngươi nhìn vào hình hài ta… vẫn còn phải hỏi sao?”

Chàng thốt lên:

“Thần Kim Quy! Ngài là… thần Kim Quy, người từng giúp An Dương Vương xây Loa Thành, chế nỏ thần… Người dân đến giờ vẫn ca tụng công đức ngài!”

Kim Quy cười, một tiếng cười lạ lùng mà Trình Khiêm chưa gặp bao giờ trên cõi đời:

“Phải. Ta từng được ca tụng. Nhưng ta vẫn mang nỗi đau từ ngàn năm nay... Nỗi đau của sự bất lực. Chỉ trong một phút sơ ý, mất cảnh giác, ta đã để đầu rơi, máu chảy, Loa Thành đổ nát. Và chỉ một lời bất cẩn của ta, Mỵ Châu trong trắng đã phải chết oan. Ta vẫn chưa nguôi nỗi đau ấy...

Trình Khiêm bàng hoàng. Chàng quỳ xuống:

“Xin ngài kể lại... Kẻ nho sinh nghèo này đã từng đọc nhiều sách thánh hiền, cũng ít nhiều thông tỏ sử sách, nhưng vẫn muốn nghe từ chính ngài, như lời tâm sự, sẻ chia... Nỗi đau ấy, như lời ngài vừa nói, quả thực kẻ hèn này cũng chưa được biết tới

Chàng học trò lặng im, tay đặt lên phiến đá lạnh buốt. Kim Quy nhìn chàng thật lâu, rồi cất giọng chậm rãi:

“Có được vinh quang, được ngôi báu, được thiên hạ… là khát vọng lớn. Nhưng thực hiện khát vọng thế nào, thực hiện khát vọng để làm gì lại là chuyện khác. Ngươi đang mang trong mình chí lớn. Hãy nghe chuyện ta kể. Biết đâu, ngươi sẽ ngộ ra điều gì đó.”

Và Kim Quy kể...

Thuở hồng hoang, chưa có con người, chưa có vua, chưa có chữ, chỉ có linh khí và quyền lực cuộn trào trong lòng đất, Kim Quy và kẻ thù của Kim Quy đã là hai tồn tại cổ xưa. Kim Quy tượng trưng cho Công Lý, Lẽ Phải và Thiện Lành. Còn kẻ thù của Kim Quy thì ngược lại, tượng trưng cho các thế lực hắc ám, luôn luôn âm mưu tranh đoạt cõi đời, đoạt thiên mệnh, đoạt quyền lực bằng cách ra tay tàn bạo với những gì thuộc về Lẽ Phải, Thiện Lành. Đã nhiều lần, cuộc đụng độ giữa hai thế lực diễn ra gay gắt đến độ trời long đất lở. Nhưng vẫn bất phân thắng bại.

Trong những lần đối đầu xuyên qua các thời đại chưa thành tên gọi, nhiều lần Kim Quy thắng thế, nhưng vẫn chưa tiêu diệt được đối phương. Kẻ thù của Kim Quy vừa mạnh, lại vừa xảo trá và lươn lẹo. Cứ thế, cuộc chiến kéo dài xuyên qua thời gian, không gian. Tốt và xấu, Thiện và Ác cứ luôn giằng co, vật lộn, khi quyết liệt, dữ dội. Lúc âm thầm, dai dẳng. Trong một trận quyết đấu trực tiếp cuối cùng, kẻ thù của Kim Quy thề độc: “Nếu kiếp này bất phân thắng bại, thì kiếp sau ta sẽ đầu thai làm người. Kẻ nào chiếm được thiên hạ trước, sẽ tru diệt kẻ còn lại”. Từ đó, cuộc chiến bất tận giữa hai linh hồn bắt đầu bước vào hình hài con người. Kẻ mang khí tà đầu thai trước, chiếm phương Bắc, chiêu dụ nhân tâm, hấp thụ khí đất. Hắn lấy tên Triệu Đà, nhưng linh hồn trong hắn vẫn là kẻ xưa kia từng giao chiến với Kim Quy, vẫn mang trí nhớ cũ, mối thù cũ, tham vọng cũ.

Kim Quy không hóa thân thành con người. Rùa thần âm thầm quan sát đối phương xem hắn giở những thói gì. Thần hiểu, nếu mình hóa thân thành người, tiếp tục lao vào cuộc chiến, thì cảnh đầu rơi máu chảy trong dân chúng là không tránh khỏi. Sứ mệnh của thần không phải là tranh đoạt. Sử mệnh của thần là bảo vệ Lẽ phải và Công lý, bảo vệ những điều Thiện lương của cuộc sống này.

Ở phương Nam, một đế chế non trẻ đang thành hình, nước Âu Lạc dưới sự cai trị của nhà vua An Dương Vương. Thần Kim Quy nhìn thấy dã tâm của Triệu Đà muốn thôn tính Âu Lạc, mở rộng bờ cõi, phô trương thanh thế, làm bàn đạp để tiếp tục thôn tính các quốc gia khác. Dần dần, hắn sẽ bá chủ thế giới... Thần Kim Quy nhìn thấy cả sự tươi mát của quốc gia Âu Lạc, tâm hồn nhà vua như mặt trời mới mọc, tươi sáng và rạng rỡ với ý chí xây dựng Âu Lạc thành quốc gia lớn mạnh, bằng chính bàn tay và khối óc của mình. Thần Kim Quy nhìn thấy người dân Âu Lạc  yêu thương nhau bằng tình yêu thắm thiết, luôn vun trồng, ươm xới, không mảy may ý nghĩ tối tăm nào. Cái Thiện, niềm vui luôn ngập tràn. Thần Kim Quy hiểu, sứ mệnh của mình là bảo vệ quốc gia bé nhỏ, non trẻ và đáng yêu này.

Không biết Triệu Đà có nhận ra vị hộ quốc âm thầm của Âu Lạc là Kim Quy không, nhưng khát vọng xâm lăng của hắn thì rõ dần. Ban đầu, Triệu Đà bắt đầu phá rối việc xây thành; sai âm binh phá hoại, khiến thành xây ban ngày, đổ ban đêm. Ngăn cản việc xây thành, nghĩa là Triệu Đà ngăn cản việc An Dương Vương bảo vệ triều đình, bảo vệ bờ cõi của mình. Tuy nhiên, thần Kim Quy cũng dùng sức mạnh thần thông của mình mà chống lại âm binh.

“Ta phải dùng hết pháp lực, niệm chú trấn yểm, tự cắt móng rùa làm kim chỉ, dùng huyết mà vạch lại mạch đất. Bao nhiêu lần đứng bên vực tử, ta vẫn gắng giữ Loa Thành…”

Và cuối cùng, thành Cổ Loa cũng dựng xong. Nỏ thần ra đời. Triều đình ổn định. Dân tình hân hoan ngợi ca. Nhà vua An Dương Vương cảm kích vô cùng, tôn thần Kim Quy lên làm bậc quốc sư, hộ quốc.

Nhưng đó chỉ là khởi đầu.

“Triệu Đà biết ta đã xuất hiện, đã ra tay. Hắn không thể ngồi yên. Hắn quyết định tung đòn cuối cùng, gửi con trai hắn, Trọng Thủy vào tận Loa Thành để làm bàn đạp chiếm lấy giang san. Đó là việc ta không thể ngờ tới... Đó là lỗi của ta... Chỉ vì sơ xuất.... Đó cũng là nỗi đau dai dẳng đến tận giờ của ta”

Kim Quy lặng đi một lát:

“Kẻ thù của ta hiểm độc. Không thể giao tranh trực tiếp bằng sức mạnh hắn đã dùng mưu hèn kế bẩn. Trình Khiêm, ngươi hãy nhớ cho rõ: cái xấu, cái ác có muôn hình vạn trạng. Đừng lơ là, đừng mất cảnh giác…Trong cuộc chiến để bảo vệ Chân Lý, bảo vệ Lẽ Phải và muôn dân, không lúc nào được mất cảnh giác... Triệu Đà hiểm độc vô cùng.  Hắn không đến Loa Thành bằng đao kiếm. Hắn đến bằng ánh mắt biết nói lời yêu của chính con trai hắn.”

Trình Khiêm rùng mình, bừng tỉnh giữa chiều tà. Mặt trời đã nghiêng về bên kia thành đổ. Gió thổi qua mái tóc cứng vì mồ hôi khô. Chàng ngơ ngác nhìn quanh: gốc đề, giếng Ngọc, những phiến đá rêu xám. Tất cả vẫn lặng thinh, nhưng trong tim chàng, những lời thần rùa vẫn còn vang vọng.

“ Trời ơi, sao ta lại có giấc mộng lạ lùng giữa ban ngày? Thần Kim Quy, xin người hiển linh để kẻ sĩ này tin rằng được gặp ngài thực sự chứ không phải giấc mộng huyễn ban ngày”

Chàng đưa tay lên trán, ướt lạnh. Một lát sau, đôi mắt mỏi mệt lại khép xuống. Trình Khiêm thiếp đi…

Và giấc mơ tiếp tục.

Thành Cổ Loa đã hoàn tất. Tường đất ba lớp cuộn tròn như trôn ốc, hào sâu, cột cao, nỏ thần giấu trong điện kín. Từ ngày thành vững, dân yên, giặc phương Bắc kéo đến bao lần, nhưng cứ đến là bại. Kim Quy đã trao cho An Dương Vương bí kíp nỏ thần, mỗi mũi tên không cần nhắm cũng tự tìm đến tim kẻ thù, mũi nào cũng tẩm độc, trúng tên là chết. Tên ra khỏi nỏ là khắc trúng.

Triệu Đà dấy binh bao phen, mà vẫn không thể vượt nổi chân thành Loa.

An Dương Vương ngày càng kính trọng thần Kim Quy, gọi là "quốc sư", thường lui tới hỏi mưu lược, bàn việc nước. Còn thần Kim Quy vẫn tiếp tục quan sát Triệu Đà. Thần hiểu Triệu Đà không dễ dàng bỏ cuộc. Hắn vẫn đang nuôi chí, chờ thời. Âm mưu của hắn, khát vọng đạp đổ tất cả để leo lên đỉnh cao quyền lực của hắn không lụi tàn mà vẫn được âm thầm hun đúc. Có điều, hắn sẽ giở những trò gì tiếp theo thì thần Kim Quy không đoán được.

Một ngày kia, tin từ phương Bắc đưa về: Triệu Đà xin cầu hòa, nguyện kết thân. Kim Quy càng cảnh giác. Thần hiểu, kẻ như Triệu Đà không biết nhún mình nếu không có toan tính hiểm sâu. Nhưng toan tính ấy là gì thần chưa nhìn thấu. Và điều thần không ngờ là mưu kế ấy không đến từ kiếm cung, mà đến từ hôn lễ.

Triệu Đà dâng biểu, xin gả con trai Trọng Thủy cho công chúa Mỵ Châu. Trọng Thủy sẽ đến Loa Thành, ở rể, cùng học lễ nhạc với triều thần Âu Lạc, thể hiện tình hòa hiếu. Trọng Thủy sẽ cùng An Dương Vương củng cố Âu Lạc ngày một vững bền, như cây nảy cành, xanh lá rồi đơm hoa, kết quả.

An Dương Vương vui mừng. Từ kẻ thù trở thành hòa hiếu, thông gia là bớt đi một mối nguy mất thành, mất nước. Thần Kim Quy không thể nói cho An Dương Vương về bản thể thật của Triệu Đà. Vì thần cũng không thể lộ hình hài. Nhưng Trọng Thủy lại khác, dù là con Triệu Đà, chàng vẫn chỉ là một người trần đúng nghĩa, vừa mới lớn lên, tâm hồn còn trong trẻo, chưa bị nhuốm những mưu toan khốc liệt của Triệu Đà. Chính bởi vậy, Triệu Đà mới sử dụng chính con trai làm một con cờ trong bàn cờ nham hiểm hắn bày ra. Thần Kim Quy suy tính, nghĩ mình cận kề nhà vua An Dương Vương và công chúa Mỵ Châu thì sẽ hóa giải được mối nguy nếu có. Thần vẫn chưa biết cụ thể toan tính của Triệu Đà trong chuyện hôn lễ này là gì.

Mối hòa hiếu của hai quốc gia lân bang được bắt đầu khi Trọng Thủy bước vào thành. Chàng là một người trẻ tuổi đẹp đẽ, trong trẻo, sáng ngời như ánh dương đầu hạ. Mắt đen thăm thẳm như nước giếng mới khơi. Lưng cao, tiếng nói dịu, lễ nghi chu toàn. Kim Quy không ngờ đó là con trai Triệu Đà. Vì chàng khác hẳn sự hiểm độc của người cha. Chàng chỉ là người trần, sinh ra từ người mẹ chết sớm, lớn lên trong cung cấm nhưng đầy mộng mơ. Chàng không biết cha mình là hóa thân của kẻ thù truyền kiếp của Kim Quy.  Trọng Thủy khi ấy chỉ mang một ước vọng: tìm thấy một nơi bình yên, một người con gái xinh đẹp có thể khiến chàng được sống thật với lòng mình. Chàng cũng từng kinh sợ những cuộc giao tranh, trừng phạt, giết chóc của vua cha. Rời xa vua cha cùng kinh thành là điều chàng từng mong muốn.Trọng Thủy nhận lệnh vua cha đến Loa Thành gặp Mỵ Châu nhưng chưa một lần biết mặt người con gái đó. Chàng lãng mạn tin rằng Mỵ Châu là đóa hoa đẹp nhất của đất Âu Lạc.

Và rồi, ánh mắt chàng chạm vào Mỵ Châu, công chúa của Loa Thành.

Nàng vừa bước ra khỏi điện, áo lụa nhẹ như mây, tóc đen buông qua vai. Mắt nàng sáng nhưng e lệ. Và giữa buổi chầu đông đúc, chỉ một thoáng nhìn, hai ánh mắt đã buộc vào nhau như chỉ đỏ.

An Dương Vương không vội đồng ý hôn sự. Ông hỏi Kim Quy. Vị thần rùa sau khi cân nhắc lại là người hối thúc:

“Hãy nhận lời. Trọng Thủy sẽ ở lại Loa Thành  nghĩa là con trai kẻ thù trong tay ta. Ở gần, dễ dò mưu, dễ hóa giải.”

Nhà vua gật đầu.

Chẳng ai biết, trong đám cưới ấy, kẻ gài mưu đã gieo hạt. 

Chẳng ai biết, chỉ có ba người thật sự tin rằng đó là một hôn lễ vì hạnh phúc: An Dương Vương, Trọng Thủy, và Mỵ Châu. Còn Kim Quy tuy chưa đọc ra âm mưu chính của Triệu Đà nhưng vẫn mơ hồ một nỗi lo, rằng hôn sự rất có thể là khởi đầu của một giao tranh mới!

“Ta đã đoán ra mà không quyết liệt! Chỉ một chút chần chừ và một ly sơ hở... đã khiến ta day dứt cả nghìn năm...”

Trình Khiêm bàng hoàng tỉnh dậy trong một thoáng, rồi chàng lại thiếp đi lần nữa, mạch mộng nối dài như chưa từng gián đoạn. Trong giấc mơ ấy, chàng thấy Trọng Thủy, khuôn mặt thanh tú, đôi mắt sáng như ngọc, bước đi giữa lối đi trong Loa Thành rợp bóng cây.

Từ ngày cưới Mỵ Châu, Trọng Thủy sống trong hạnh phúc chân thành. Chàng yêu nàng từ cái nhìn đầu tiên, và càng ở gần, lại càng si mê nàng hơn cả những gì mình từng tưởng tượng. Mỵ Châu xinh đẹp như một nụ hoa hàm tiếu, trong trẻo như nước hồ thu, thơ ngây như giọt sương buổi sớm đọng trên lá biếc. Nàng luôn khiến lòng chàng bình yên. Trọng Thủy đã sống những tháng ngày như mộng tại Loa Thành, bên Mỵ Châu tha thiết và quấn quýt. Như thể chàng sinh ra và lớn lên tại Loa Thành. Như thể cả đời chàng chỉ gắn bó với nơi này. Như thể chưa bao giờ giữa An Dương Vương và Triệu Đà xảy ra xung đột...

Triệu Đà nơi phương Bắc biết rõ điều ấy. Hắn không cần con trai phải biết dã tâm của mình. Trái lại, chính sự trong sáng của Trọng Thủy sẽ là chìa khóa mở kho bí mật của Loa Thành.

Trong một lần Trọng Thủy về thăm cha theo lời nhắn gọi của Triệu Đà, Triệu Đà đã gọi con trai vào tận cung riêng trò chuyện. Hắn tha thiết: “Con ạ, cha không muốn gây binh đao. Nhưng nếu sau này chiến sự bất ngờ xảy đến, ta cần biết cách bảo vệ đất nước, như cách mà An Dương Vương đã giữ vững Loa Thành. Vì thể diện, ta không thể trực tiếp hỏi thẳng An Dương Vương. Vì ta cũng là một vị vua. Con hãy tìm hiểu giúp ta cách mà An Dương Vương bảo vệ thành trì, qua Mỵ Châu. Nên nhớ là chỉ được tỉ tê với Mỵ Châu, không cho bất cứ một ai khác biết việc này. Bảo vệ giang san luôn là điều cơ mật.”

Trọng Thủy hoang mang. Nhưng cha chàng nhắc lại đến mấy lần: “Đừng hỏi An Dương Vương. Đừng để Kim Quy biết. Họ là những người đa nghi, chuyện quân cơ thì cẩn mật. Chỉ có Mỵ Châu là người đầu gối tay ấp với con, người có thể vì con mà làm mọi việc thì dễ nói, dễ hỏi.”

Chàng ngây thơ tin lời.

Mỵ Châu cũng chẳng chút nghi ngờ. Nàng yêu chồng, tin chồng, và sẵn sàng làm mọi việc vì chồng. Trước câu hỏi như bâng quơ của Trọng Thủy trong một đêm hương lửa nồng nàn, Mỵ Châu đã kể về nỏ thần, thứ vũ khí kỳ diệu giúp Loa Thành đứng vững trước bao đợt tấn công. Nhưng nàng chưa từng thấy, cũng chưa từng được chạm vào nỏ thần...

Có hôm, hai người ngồi bên giếng Ngọc, Trọng Thủy vòng tay ôm Mỵ Châu, tha thiết nói: “Thân ta ngồi đây mà lòng vẫn canh cánh lo về Bắc quốc. Nơi đó cha ta trên ngai vàng nhưng đơn độc một mình. Nếu có kẻ thù xâm lược, chẳng biết ai là người phò tá cho cha. Giá như ta được thấy nỏ thần của Âu Lạc thế nào, ta sẽ nhờ thợ giỏi chế tác để làm vũ khí cho cha phòng ngừa kẻ thù xâm lược. Lỡ đâu Bắc quốc sau này gặp loạn, cha cũng sẽ có vật phòng thân...”.

Lời ấy khiến Mỵ Châu xúc động. Và rồi nàng để ý dò la vua cha,  điều mà trước đây công chúa ngây thơ chưa từng nghĩ tới. Một lần, An Dương Vương vô tình nói về nơi cất giấu nỏ thần. Mỵ Châu nhớ kỹ, kể lại cho Trọng Thủy nghe.

Kim Quy những ngày ấy lại đang rời xa thành, lên núi thiêng tìm linh khí mới.

Trọng Thủy, với sự giúp đỡ âm thầm của Mỵ Châu đã mượn được nỏ thần để xem cho kỹ nhưng kỳ thực là chàng đã đánh tráo được nỏ thần, thay bằng một chiếc nỏ thường giống hệt, theo lệnh của vua cha Triệu Đà. Triệu Đà chỉ bảo: để ta mang về cho thợ giỏi trong nước xem thử, với một thứ đơn sơ như thế này thì phép thuật nằm ở đâu. Mọi thứ diễn ra nhẹ nhàng như một trò chơi. Trọng Thủy chỉ nghĩ là một lần “mượn nỏ” thật lòng. Chàng không nghĩ đến điều gì sâu xa hơn. Chàng còn mải vui vầy, quấn quýt với Mỵ Châu.

Chàng mang nỏ về phương Bắc như lời cha dặn. Trước khi đi, Trọng Thủy siết tay Mỵ Châu trong nước mắt. Rồi như linh tính, rời đến cổng thành, chàng lại hấp tấp quay trở lại, ôm siết Mỵ Châu lần nữa, dặn dò: “Không hiểu sao, ta lại mang một linh cảm lạ lùng... Không, ta không tin vào những điều không tốt đẹp.... Nhưng trước giờ khắc chia xa này, tim ta thắt lại. Mỵ Châu ơi, nếu như trong lúc ta xa nàng về Bắc quốc, nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra, nàng hãy nhớ bảo trọng. Tấm áo lông ngỗng này, ta vẫn coi như báu vật....” Chàng cởi chiếc áo lông ngỗng trắng khoác lên vai nàng: “Mỗi khi nhớ ta, nàng hãy mặc áo này. Nó là vòng tay ôm của ta. Nếu có biến cố gì, hãy mang nó theo… để ta tìm ra nàng giữa muôn trùng. Bởi lẽ, thiên hạ không có cái áo thứ hai giống thế này... Đây là tấm áo ngày xưa hiền mẫu của ta tự tay làm, để chống chọi với giá lạnh phương Bắc. Hiền mẫu của ta không còn, ta chỉ còn tấm áo này. Nó sẽ thay ta bảo vệ nàng”.

Rồi chàng lên đường.

Nước mắt chưa kịp khô, mà lưng áo đã khuất trong chiều mù khói.

Loa Thành thất thủ trong một đêm u ám. Không tiếng trống, không hồi kèn. Chỉ có khói, có lửa và tiếng chân dồn dập bỏ chạy. Những mũi tên tẩm lửa độc rơi như mưa. Thành đổ, máu nhuộm sân rồng.

Kim Quy trở về, lao qua cổng thành sụp đổ, đứng trơ trọi giữa biển người tan tác. Thần không cần nhìn cũng biết: nỏ thần đã bị tráo. Quá bất ngờ và đau xót, thần gào lên một tiếng, trời đất như nghiêng ngả. Sự thua cuộc lần này không chỉ là của An Dương Vương, mà là của sự bất cẩn, chủ quan của thần. Một lần nữa, cái Ác lại chiến thắng. Chiến thắng bằng mưu mô xảo trá.

Trên bậc thềm đổ nát, An Dương Vương lặng lẽ nhìn lửa cháy. Không còn thời gian.

– Mỵ Châu! Nhà vua gọi gọi -Theo ta!

Mỵ Châu từ trong cung điện hoảng loạn chạy ra. Mái tóc rối tung, chiếc áo lông ngỗng vẫn khoác trên người. Ánh mắt nàng bàng hoàng, không hiểu vì sao đất trời lại sụp đổ nhanh đến thế. Mới hôm nào, Trọng Thủy còn ôm nàng trong tay. Mới hôm nào, Loa Thành còn bình yên và đẹp tươi biết mấy!

– Cha ơi… Trọng Thủy… đang ở đâu? – nàng hỏi, giọng như sắp khóc.

An Dương Vương siết chặt hàm răng. Không thể trả lời. Cũng không biết làm gì hơn nữa. Nhà vua cố ghìm cơn đau đớn, thét lên: Mau lên ngựa!

Mỵ Châu leo lên yên ngựa, sau lưng cha, vẫn không ngừng ngoái lại. Lửa đã nuốt trọn cả thành. Ánh mắt đau đớn kiếm tìm trong vô vọng. Tại sao lại thế này? Trọng Thủy đâu? Trọng Thủy có quay trở lại? Làm thế nào để Trọng Thủy tìm được mình đây?

Ngựa phi ra khỏi thành. Bầu trời rợp khói. Mỵ Châu vẫn không ngừng ngoái đầu nhìn lại, tim đau như đang tan ra từng mảnh. Xa Loa Thành là xa nơi chốn bình yên và hạnh phúc. Một mai Trọng Thủy quay về, làm thế nào để biết nàng đã đi đâu? Làm thế nào để tìm được nhau? Nàng bỗng nhớ lời Trọng Thủy: “Nếu có biến, hãy mặc áo lông ngỗng... ta sẽ tìm nàng theo vết áo rơi.” Nàng bứt từng nhúm lông ngỗng trong bàn tay run rẩy, rải dọc theo đường đi.

Phía sau, quân Triệu gấp gấp đuổi theo. Chúng đã thấy Mỵ Châu khoác áo lông ngỗng ngồi sau lưng ngựa của An Dương Vương. Chúng đã thấy từng vệt lông ngỗng trắng rải khắp đường đi như những giọt nước mắt vừa rơi, chưa kịp tan...

Còn Trọng Thủy, trong khi ấy, đang chạy khắp Loa Thành đổ nát. Chàng không hay biết về âm mưu đoạt nỏ chiếm Loa Thành của vua cha. Đến khi hay biết thì đã muộn. Ngờ đâu chính chàng là kẻ tiếp tay cho cha để đẩy Loa Thành vào biển lửa tan hoang. Và Mỵ Châu, Mỵ Châu yêu dấu nhất đời của chàng, không hiểu đang ẩn nấp chốn nào? Triệu Đà nham hiểm bảo: “Mỵ Châu chắc chắn còn ở đây, đang đợi con.” Và chàng tin. Chàng gọi tên nàng giữa lửa cháy, giữa những mảnh gạch nát. Nhưng chỉ có tro tàn đáp lại. Chàng đi tìm Mỵ Châu trong vô vọng, trong nước mắt, và trong máu rơi...

Kim Quy đứng nhìn mái một cổng thành còn sót lại. Bốn chân rùa thần lấm máu, đôi mắt đỏ như lửa.

“Ta... lại một lần nữa thua cuộc.” Thần cay đắng và đau xót thốt lên.

Kim Quy gầm lên, tiếng vọng dội vào đêm tối. Lửa từ Loa Thành hắt lên như máu loang. Rùa thần nhìn Loa Thành trong biển lửa, nỗi ân hận trào lên như sóng biển ngày bão. Tại sao ta lại có những phút lơ là? Tại sao ta không quyết liệt từ những phút ban đầu? Tại sao ta không sớm nhận ra âm mưu khủng khiếp của Triệu Đà... Rồi Kim Quy nghĩ đến Mỵ Châu. Nàng công chúa nhỏ mang nụ cười như nắng sớm. Nàng công chúa vô tội chưa từng hiểu một mảnh nào trong bàn cờ thế nham hiểm của Triệu Đà. Nàng chỉ biết yêu chân thành và tha thiết. Nhưng chính tình yêu chân thành và tha thiết ấy lại là nguồn cơn gây ra tất cả những nông nỗi này! Chính Mỵ Châu, chính sự trong sáng và tình yêu tha thiết của nàng với Trọng Thủy, đã khiến cho nỏ thần bị tráo. Nhưng Mỵ Châu không có tội gì!

Trong lửa cháy, gió biển từ xa thổi về, mang theo mùi tro và cả mùi lông ngỗng cháy dở.

Biển hiện ra trước mắt, xám ngắt và lạnh lẽo. Sóng không gào. Chỉ có rì rào như những lời thì thầm tang chế. Trước mặt là biển. Sau lưng là quân Triệu đang siết vòng vây.

An Dương Vương kéo dây cương ngựa. Kim Quy vừa hiện thân. Thần sừng sững trước mặt nhà vua, thân hình phủ đầy bụi khói và máu.

Không đợi hỏi, thần Kim Quy nói thẳng, giọng lạnh và đau  như như một mũi tên xuyên qua lồng ngực:

– Nhà vua đã thất trận. Vì nỏ thần đã bị tráo.

An Dương Vương chết lặng.

– Ai? Nhà vua chỉ bật lên được một câu.

Kim Quy không đáp ngay. Rồi sau một khoảng im lặng dài, thần cay đắng chỉ vào chiếc áo lông ngỗng nham nhở đang khoác trên vai Mỵ Châu:

– Là Mỵ Châu...

An Dương Vương quay đầu lại. Đôi mắt Mỵ Châu mở lớn, ngơ ngác chưa hiểu gì. Tóc nàng tơi tả. Tim nàng còn tơi tả hơn. Vì vẫn không thấy bóng hình Trọng Thủy, cho dù lông ngỗng đã rải khắp đường đi...

An Dương Vương quay phắt lại!

- Cha ơi...

An Dương Vương tuốt kiếm. Thanh kiếm rực sáng trong chiều xám. Ông gầm lên như kẻ hóa điên:

-  Con đã khiến giang sơn ta mất. Thành tan. Nước mất. Danh dự làm vua của ta cũng nát!

- Con ...

Lưỡi kiếm vung lên, cắt ngang lời Mỵ Châu.

Máu phun lên bãi cát trắng. Chiếc áo lông ngỗng trắng bị máu thấm đẫm, chuyển sang màu đỏ thắm. Thân xác Mỵ Châu đổ nghiêng bên bờ biển, ánh mắt vẫn mở to ngơ ngác. Đôi môi hồng thắm còn ngập ngừng như muốn níu lại lời giải thích sau cùng.

Biển không nổi sóng. Nhưng lòng Kim Quy như lở ra từng mảng. Thần không kịp trở tay. Thần chỉ định nói với An Dương Vương nguồn cơn. Đâu ngờ lưỡi kiếm vung lên nhanh như ánh chớp. Thần chỉ muốn An Dương Vương biết sự thật, nhưng không ngờ sự thật lại khiến Mỵ Châu phải rơi đầu. Lưỡi kiếm oan nghiệt vung lên trong lúc An Dương Vương tuyệt vọng đến tột cùng...

Biển cả bỗng nhiên trào sóng đỏ...

Xa xa, một bóng ngựa đang phi tới. Là Trọng Thủy.

Chàng ném dây cương, lao xuống bờ cát, ôm lấy thi thể vợ. Mái tóc nàng ướt đẫm mồ hôi và máu. Lồng ngực mềm đã lạnh.

- Mỵ Châu!

Chàng gọi tên nàng. Tiếng gọi đớn đau như tiếng khóc dài không dứt.

Không ai trả lời.

Chàng úp mặt vào vạt áo thấm máu, nghẹn ngào. Gió nổi lên. Sóng vỗ liên hồi dữ dội. Sóng nuốt chửng cả An Dương Vương vào lòng biển lạnh...

Trọng Thủy lặng lẽ bế xác Mỵ Châu trở về Loa Thành đổ nát. Máu từ áo lông ngỗng đỏ lại rỏ dọc đường về...

Chàng đặt thi thể nàng bên giếng Ngọc, nơi họ từng cùng nhau soi bóng, ước thề, nói những lời yêu thương tha thiết. Tóc nàng thả buông, hòa vào làn nước trong vắt như chưa từng nhuốm máu. Chàng ôm xác nàng, nhảy xuống giếng, như để tìm lại những tháng ngày tươi đẹp xa xưa.

Nước khép lại như cánh ngỗng khép lông trong hoàng hôn cuối cùng.

Từ đó, người dân quanh vùng kể rằng: những đêm trăng sáng, họ thường nhìn thấy cánh ngỗng đỏ bay qua giếng Ngọc, rồi tan vào sương trắng. Họ tin, đó là linh hồn oan khuất của Mỵ Châu, người con gái trong trắng, ngây thơ và vô tội, chưa từng làm gì sai dù chỉ trong ý nghĩ, chỉ một lòng yêu và đợi chờ. Người con gái ngay cả khi phải chết, cũng chưa từng được biết vì sao mình phải chết một cách tức tưởi và oan nghiệt đến thế!

Trình Khiêm bàng hoàng tỉnh giấc. Chiều đã nhạt dần. Loa Thành vẫn đổ nát, cỏ dại vẫn mọc xanh giữa rêu tường lạnh lẽo.

Chàng đưa tay lau mồ hôi, hơi thở chưa kịp ổn định.

Không rõ giấc mộng vừa rồi là thật hay do mình tưởng tượng?

Nhưng lòng chàng chợt nhói. Có điều gì đó vỡ vụn.

Tiếng rùa thần như vẫn còn văng vẳng: không phải giấc mộng lớn lao nào cũng đều đáng trọng! Người nuôi mộng lớn phải biết vì xã tắc, muôn dân. Còn chỉ biết mưu cầu cho một bản thân thì ngươi nên nghĩ lại. Bởi giấc mộng nào như thế rồi cũng sẽ tan thôi... Đừng bất chấp Lẽ phải và Chân lý! Cuộc chiến giữa Thiện và Ác vẫn còn chưa kết thúc! Hãy biết nhân mầm Thiện để đẩy lùi cái Ác!

Trình Khiêm đứng dậy, cúi đầu trước nền cũ thành Loa, rồi lặng lẽ bước đi. Trong ráng chiều chạng vạng, dường như có tiếng đập rất khẽ của cánh ngỗng đỏ bay ngang giếng  Ngọc...

N.T.V.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Lời hứa - Truyện cực ngắn của Lê Thanh Huyền
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 41 tháng 10/2025.
Xem thêm
Ký ức tuổi thơ tôi – Truyện ngắn Vũ Mạnh Định
Có một miền quê nằm bên dòng Hoàng Long lặng lẽ, nơi triền bãi xanh mướt ôm lấy con nước hiền hòa, nơi mỗi chiều vang lên tiếng chuông chùa Thông Linh Tự và mỗi mùa hội đình lại rộn ràng cờ hoa rợp ngõ. Ấy là quê tôi - thôn Thần Thiệu nhỏ bé nhưng chan chứa tình người, nơi đã nuôi dưỡng tuổi thơ tôi bằng tiếng trống hội, bằng mùi khói rơm chiều và những câu chuyện lịch sử vọng về từ ngàn xưa.
Xem thêm
Máu đỏ da vàng – truyện ngắn của Lại Văn Long
“Máu đỏ da vàng” – truyện ngắn của Lại Văn Long không chỉ là bi kịch của một người đàn bà trong vòng xoáy hậu chiến, mà còn là bản hòa ca của lòng nhân và tinh thần hòa giải dân tộc.
Xem thêm
Trạm xá - Truyện Võ Đào Phương Trâm
Đồng hồ bước qua 7 giờ tối, bên ngoài khuôn viên Trạm xá tối om như mực, bác sĩ Nguyên vẫn còn miệt mài với chồng hồ sơ bệnh án, thỉnh thoảng, anh khẽ ngước mặt nhìn ra khung cửa, từng đợt gió thổi nhẹ mang theo chút mùi hương hoa rừng.
Xem thêm
Bông hoa của bản – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Tiếng khóc thút thít của Mai vọng từ phía buồng lại, xóa tan sự tĩnh lặng của đêm. Páo ngồi bên bếp, nồi nước đang sôi ùng ục bốc khói, tay Páo cầm thanh củi cời những viên than hồng rực, ánh mắt vô định nhìn những ngọn lửa bập bùng cháy cũng như lòng Páo lúc này đang không yên. Páo muốn đi vào trong phòng Mai, nói với Mai rằng hãy đứng dậy và bỏ đi cùng anh. Hãy bỏ lại tất cả cuộc sống hiện tại để đến một nơi khác bắt đầu cuộc sống mới như đôi chim cu tự xây tổ mới cho mình, như đôi hoẵng chạy vào rừng sâu sống cuộc sống yên bình... Từ nhỏ Páo đã chứng kiến Mai khổ quá rồi, giờ nếu tiếp tục để Mai chịu khổ hơn nữa anh thấy mình càng vô dụng như khúc gỗ dưới sàn nhà, như cây lá han trong rừng.
Xem thêm
Vùng đất hứa -Truyện Đông Sơn Lữ Khách
Vùng đất hứa – giấc mơ của biết bao người ở một phương trời xa xôi. Nhưng để chạm tới giấc mơ ấy, họ phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu và sinh mạng. Câu chuyện này được viết để nhắc rằng: Hạnh phúc thật sự không nằm nơi đất khách, mà ở chính quê hương, nơi có tình thân và vòng tay chờ đợi.
Xem thêm
Kịch bản hoàn hảo – Truyện Miên Tình
Đây rồi, cung điện Potala hiện ra như một huyền thoại hóa đá, đứng sững trên đỉnh núi Hồng Sơn, giống như một bài thơ viết bằng gió, bằng tuyết và bằng máu của thời gian. Mái ngói đỏ sậm, tường trắng ngà, tầng tầng lớp lớp như những lớp ký ức quyện vào nhau không thể bóc tách. Cô bước chậm từng bậc thang lên, mỗi bước như dấn thêm vào một thế giới không dành cho người vội vã, từng phút giây đều như chờ đợi giống như cô. Trái tim đập chậm lại, chẳng phải vì độ cao, mà vì một cảm giác vô danh của sự u buồn thánh thiện.
Xem thêm
Như là giấc mơ - Truyện ngắn Huỳnh Ngọc Lan
Nguyên nhà giáo, nhà văn Huỳnh Ngọc Lan sinh năm 1952 quê quán ở Huế nhưng sinh ra và lớn lên ở Vinh, bởi ba chị đi tập kết gặp mẹ chị ở Nghệ An. Thời kỳ Đế quốc Mỹ ném bom khốc liệt bất kể ngày đêm từ Vĩnh Linh đến Quảng Bình rồi Hà Tĩnh và Nghệ An. Lúc này chị đang theo học Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên ngành hóa. Thật đau thương khôn xiết, khi Mẹ và ba người em của chị chết trong một trận bom vùi giữa đêm khuya; sau ngày đất nước thống nhất, chị theo ba về ở Huế quê nội.
Xem thêm
Dưới bóng núi – Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Trang
Mùa mưa ở vùng biên như một lời thách thức của thiên nhiên. Những con đường mòn dẫn vào bản bỗng hóa thành dải bùn đặc quánh, trơn như mỡ. Mây sà xuống tận mặt người, núi rừng hùng vĩ, hoang dại, đẹp đến nghẹt thở nhưng cũng dữ dằn không kém. Con đường này Khương đã thuộc đến từng khúc cua, từng con dốc và anh biết chỉ cần lỡ tay là sẽ lao xuống vực sâu hun hút. Vượt qua những khó khăn ấy, bản Khe Nặm hiện ra như nốt nhạc bình yên giữa bản giao hưởng dữ dội của núi rừng.
Xem thêm
Bàn tay vịn - Truyện ngắn của Hội An
Truyện ngắn in ở số 153 tạp chí Văn nghệ TP. HCM
Xem thêm
Bố vợ - truyện cực ngắn của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam số 40 tháng 9 năm 2025.
Xem thêm
Chuông chùa Chân Giáo – Truyện lịch sử Nguyễn Thị Việt Nga
Mùa đông năm ấy đến sớm. Mới cuối tháng mười âm lịch mà gió bấc đã rít lên từng đợt, khí lạnh xuyên da thịt. Gió quất nghiêng những ngọn cây bồ đề và gốc đại quanh chùa Chân Giáo. Không khí buốt giá và ảm đạm, sương đọng đầy trên cành khô, thấm cả vào đá, vào gạch, vào những pho tượng Phật im lặng như thời gian đã đông cứng lại, đóng khung vào những hình hài cụ thể.
Xem thêm
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Xem thêm
Hoàng hôn trên bờ sông Main - Truyện ngắn của Trần Thủy
Tôi gặp em vào buổi chiều hôm ấy. Khi ánh mặt trời thoắt vàng như mật choàng ngập trên từng ngôi nhà rồi bất chợt lóng lánh màu hổ phách, đổ sang sắc rượu chát thành một vệt dài trầm mặc phủ kín đôi bờ sông Main.
Xem thêm
Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020
Xem thêm
Bay trong gió núi - Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Tôi nằm đây nghe tiếng lục lạc kêu. Thứ âm thanh đinh đinh đang đang mỗi buổi chiều người ta lùa đàn bò đi qua khiến cho linh hồn tôi cảm thấy thật rộn ràng, vui tươi và khoan khoái lạ kỳ. Cái cảm giác này trước đây chưa bao giờ tôi có được. Giờ thì, tôi đã cảm nhận thấy thật rõ ràng thứ âm thanh đó, cùng với hương vị nồng nồng âm ấm của đất, mùi chan chát mằn mặn của đá, mùi thơm thoang thoảng của cỏ voi, mùi ngòn ngọt chua chua của những bông hoa tam giác mạch ai đó làm vương hạt trên nấm mộ tôi.
Xem thêm
Người phụ nữ nhỏ nhất thế giới - Truyện ngắn của Clarice Lispector
Trong tận vùng sâu thẳm của châu Phi xích đạo, nhà thám hiểm người Pháp Marcel Pretre, một thợ săn và kẻ sành đời, đã bắt gặp một bộ tộc Pygmy nhỏ bé đến đáng ngạc nhiên.
Xem thêm
Chiếc bọc nhung - Truyện ngắn Võ Đào Phương Trâm
Đốp! Con heo đất vỡ toang, mớ tiền nằm xen lẫn những mảnh vỡ, lăn lóc trên nền nhà gạch tàu cũ kỹ, Khiêm nhanh tay mở mấy tờ giấy bạc, bung ra cho thẳng thóm. Những tờ giấy bạc nhăn nhúm, phai màu vì nhuốm mồ hôi và nằm xộc xệch trong cái túi quần khi Khiêm nhét vội.
Xem thêm
Hận thù và Yêu thương – Truyện ngắn Đông Sơn Lữ Khách
Có những vết thương chiến tranh tưởng chừng đã ngủ yên trong ký ức, nhưng chỉ cần một ký hiệu, một hình xăm, một cái tên… tất cả lại ùa về như ngày hôm qua. Thế nhưng, giữa bóng tối ấy, tình yêu của một chàng trai Việt và một cô gái Hàn đã thắp sáng hi vọng – hi vọng rằng hận thù rồi cũng sẽ nhường chỗ cho yêu thương.”
Xem thêm